TPP - Sân chơi sòng phẳng ẩn chứa nhiều cơ hội và thách thức

TPP - Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương đã được 12 nước thành viên chính thức ký kết vào ngày 4-2-2016 và sẽ có hiệu lực sau 2 năm. Đây là một mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính chất toàn diện, vừa có mức độ cam kết sâu và rộng. 



Đàm phán TPP chính là đàm phán sâu về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và các rào cản thương mại. Kể từ số báo này, ĐTTC giới thiệu loạt bài viết của luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch Hãng luật LP Group, về chủ đề này để bạn đọc, nhà đầu tư và DN có cái nhìn rõ hơn.

Việc tham gia TPP sẽ mở ra cho Việt Nam, các DN trong nước cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt ra một loạt thách thức mới cho DN Việt. Có thể nói, việc nhận thức rõ được cơ hội và thách thức mà TPP mang đến và tận dụng các cơ hội để hạn chế và vượt qua thử thách sẽ thúc đẩy các DN trong nước nhập cuộc một cách mạnh mẽ, sâu rộng và công bằng hơn.

Những cơ hội cho doanh nghiệp Việt trong thời kỳ hội nhập TPP

Theo Vietnam Report, 91% DN đánh giá tích cực về thay đổi liên quan đến chính sách thuế sau khi Việt Nam ký kết TPP. Đây cũng chính một trong muôn vàn cơ hội TPP gián tiếp mang lại cho các DN Việt Nam.

Thứ nhất, tham gia vào TPP sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho xuất khẩu của các DN Việt Nam. Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia, Canada và 3 nước đều cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam hiện tại đã cam kết xóa bỏ đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang có áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5 đến 15 năm sau khi TPP có hiệu lực. Riêng về thuế nhập khẩu, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, trong đó có 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Thứ hai, TPP có độ mở, độ tự do hóa cao nhất so với các hiệp định đang có, từ khắp các lĩnh vực: không chỉ là về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ mà còn cả về thương mại điện tử, lao động. Độ mở này sẽ tạo ra cơ hội để các DN Việt Nam tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự án lớn từ các tập đoàn đa quốc gia.

Thứ ba, TPP giúp tạo ra nhiều việc làm, từ đó thu hút một lượng lớn lao động cho các DN, mang lại những lợi ích về tài chính, cải thiện nguồn nhân lực.

Tóm lại, những lợi thế dành cho DN Việt khi TPP có hiệu lực có thể nhìn thấy được ngay như: thị trường mở rộng ra hơn, thuế quan giảm, có những mặt hàng thuế suất bằng 0%, dễ dàng tìm kiếm những thị trường mới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn thì còn có những thách thức đặt ra.

Và thách thức phải đối mặt

Thứ nhất, tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các đối tác tại thị trường trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc DN trong nước phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay tại sân nhà với DN các nước tham gia TPP. Thuế nhập khẩu và xuất khẩu của đa số mặt hàng trong tương lai sẽ giảm dần về mức 0% và thị trường đầu tư, dịch vụ, thương mại sẽ mở cửa tự do. Do đó, việc các DN Việt phải làm là giải bài toán về cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hệ quả theo sau thách thức này chính là nguy cơ làm mất đi thị phần nội địa. Thậm chí, các DN trong nước cũng phải cạnh tranh với nhau và bị đào thải nếu không đảm bảo nhu cầu của thị trường. 

Thứ hai, việc áp dụng tiêu chuẩn mới trong TPP sẽ tạo ra rào cản kỹ thuật (kể cả lao động và môi trường) và quyền lợi của nhà đầu tư, thí dụ như chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững, tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng về môi trường. Điều này yêu cầu các DN nếu muốn tận dụng cơ hội “vươn tới và tiếp cận” thị trường rộng mở của các nước thì phải am hiểu khi tiếp cận bất cứ thị trường nào, khi đã am hiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn tiên quyết đặt ra mới có thể gia nhập sâu vào thị trường nước bạn.

Thứ ba, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ hết sức chặt chẽ, đề cập đến tất cả các nội dung, điển hình như quyền tác giả, nhãn hiệu, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, thực thi quyền sở hữu trí tuệ… Đây chính là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam khi gia nhập TPP, bởi Việt Nam đang là một trong những quốc gia vi phạm bản quyền hàng đầu thế giới. Việc các DN nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình ngay bây giờ chính là một mấu chốt giúp các DN bảo vệ được chính tài sản của DN khỏi sự xâm phạm của DN khác. Đồng thời còn thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, vì không có nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một DN đang vướng phải những tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, vấn đề bên trong của nền kinh tế. Hầu hết các DN và bản thân người dân Việt Nam chưa hình thành và bắt kịp thói quen về việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn thờ ơ, đôi khi bảo thủ. Vì vậy, khi tham gia TPP sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn về những tiêu chuẩn mới, những yêu cầu mới mà DN Việt chưa sẵn sàng để thay đổi.

Bản thân cơ hội không tự biến thành lợi ích và đôi khi chính thách thức lại làm nên cơ hội. Giữa lý thuyết và thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam sẽ tranh thủ khai thác các lợi thế trong TPP và ứng phó với thách thức, khó khăn như thế nào. Đối với các DN, chỉ khi có giải pháp phù hợp thì lợi thế tiềm năng mới trở thành hiện thực và các khó khăn mới có thể giải quyết được. Vì vậy, để biến thách thức thành lợi thế phụ thuộc vào chiến lược của bản thân DN và Nhà nước. 

Theo Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group 
Đầu tư Tài chính

Dệt may Việt Nam chuẩn bị đón đầu TPP

(Sàn giao dịch TMĐT B2B NOCNDEAL.com) - Để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ.


Sẽ không lâu nữa, người tiêu dùng có thể sẽ tìm thấy nhiều hơn những sản phẩm may mặc thương hiệu Việt Nam tại thị trường Mỹ, New Zealand, Australia, Nhật Bản hay nhiều quốc gia thành viên khác tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mức giá chỉ tương đương giá trong nước.

Tuy nhiên, khi nhiều nhà đầu tư bên ngoài TPP ồ ạt đầu tư vào lĩnh vực này đã làm dấy lên quan ngại rằng: Rất có thể chính họ mới là đối tượng được hưởng lợi từ TPP nếu doanh nghiệp dệt may Việt Nam chậm chân.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào dệt may trong giai đoạn 2014-2015 đã ghi nhận con số 2 tỷ USD mỗi năm. Đây là mức đầu tư bằng cả 10 năm trước đó cộng lại. Đã có những dự án quy mô lớn tới 400-500 triệu USD phần lớn đến từ các nhà đầu tư Hàn Quốc, Hong Kong hay Đài Loan thuộc Trung Quốc. Mức tăng đột biến này hoàn toàn được lý giải khi TPP giành ưu đãi thuế 0% cho dệt may nhưng với điều kiện: đảm bảo từ sợi cho đến thành phẩm phải được sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam.



Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho dệt may Việt Nam khi gia nhập TPP. Thực tế, có tới 90% doanh nghiệp trong nước chỉ hoạt động ở khâu gia công và mua nguyên liệu bán thành phẩm. Những đơn vị đầu tư vào sản xuất nguyên liệu phải nhập 100% bông xơ từ Mỹ hoặc Tây Phi, vì nguyên liệu trong nước không đảm bảo yêu cầu. Khi chưa đủ tiềm lực, nhiều doanh nghiệp trong nước đã nhìn nhận khu vực FDI như một đối tác thay vì một đối thủ như trước đây để có thể tận dụng nền tảng đầu tư hàng triệu USD từ khâu nguyên phụ liệu rồi cùng chia sẻ lợi ích từ TPP.

Về lâu dài, để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ. 2 năm chuẩn bị trước khi TPP có hiệu lực sẽ là thời gian để những dự án này nhanh chóng hoàn thiện, đưa ra nền tảng căn bản nhất cho dệt may trong nước tự tin bước vào TPP.

Dệt may với TPP - Nỗi lo còn dài hay TPP: Sân chơi không dễ cho dệt may... đều là những nhận định đúng. Song, cũng cần phải khẳng định thêm: Quy tắc xuất xứ của TPP cho dù khắt khe nhưng không phải là bài toán không lời giải đối với dệt may Việt Nam nếu khẩn trương chuẩn bị một cách bài bản.

VTV

Lợi ích của hiệp định TPP với Việt Nam: "Giảm thuế và hơn thế nữa"

(Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEAL.com) Theo bà Nguyễn Hoàng Thúy, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Australia, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên khi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương giữa hai nước.




Bên lề Hội nghị Tham tán Thương mại ​đang diễn ra tại Hà Nội, bà Nguyễn Hoàng Thúy đã có một số trao đổi với phóng viên về những điểm nổi bật trong quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Australia, nhất là những lưu ý đối với doanh nghiệp khi Hiệp định TPPcó hiệu lực.

- Là thị trường lớn, mức thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tương đối dồi dào, Australia được đánh giá là một trong những bạn hàng lớn của Việt Nam. Vậy theo bà, khi Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương được ký kết, thương mại 2 chiều giữa hai quốc gia sẽ được kỳ vọng thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Hiện Việt Nam và Australia đã trở thành đối tác thương mại quan trọng của nhau, chỉ trong vòng 10 năm (2005-2014) đã tăng gấp đôi và được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ sau khi ký TPP.

Cụ thể, năm 2005 kim ngạch thương mại đạt 3 tỷ USD, đến năm 2014 đã tăng lên 6 tỷ USD. Trong khi Australia là bạn hàng xuất khẩu đứng thứ 8 và bạn hàng nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam thì theo chiều ngược lại Việt Nam là bạn hàng đứng thứ 14 của Australia cả về nhập khẩu và xuất khẩu.

Theo Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Australia/New Zealand (AANZFTA), đến năm 2020, Australia và New Zealand sẽ xóa bỏ thuế suất đối với 100% biểu thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Về thuế suất thì cam kết của Australia trong AANZFTA đã là 100% nên TPP không đem lại lợi ích trực tiếp về thuế quan cho Việt Nam trong quan hệ với Australia nhưng Hiệp định TPP sẽ đem lại nhiều lợi ích khác ngoài thuế, ví dụ, với TPP, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương.

​Không những thế, các quy định về minh bạch hóa, thuận lợi hóa thương mại (như tự chứng nhận xuất xứ), hải quan cũng sẽ tạo thuận lợi, giúp thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam-Australia.

​Ngoài ra, các quy định chặt chẽ về quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư cũng sẽ giúp thu hút, tăng đầu tư từ Australia vào Việt Nam, từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại.

Một khía cạnh nữa là TPP cho phép cộng gộp nguyên liệu từ các nước thành viên, nên hàng hóa Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu từ các nước TPP sẽ được hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang Australia.

Với sự đa dạng của các thành viên TPP thì khả năng tăng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia sau khi TPP có hiệu lực là rất lớn.

- Một thực tế hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn chiếm đa số, vậy muốn tiếp cận thị trường Australia sẽ cần phải lưu ý những gì, thưa bà?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Chính sách thương mại và thuế của Australia khá minh bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan (các quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch động vật...) khá chặt chẽ.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm được, hoặc chưa cập nhật được các quy định nhập khẩu hàng hóa và quy định về kiểm dịch đối với hàng nhập khẩu của Australia. Vì vậy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này còn gặp khó khăn ở khâu thâm nhập thị trường và kiểm dịch.

Hơn thế nữa, thương hiệu cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm, đầu tư và phát triển xứng tầm.

Thực tế cho thấy, hầu hết những mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam được xuất khẩu vẫn chỉ ở dạng xuất thô, xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm đã qua chế biến thì phần lớn lại mang tên của đối tác nước ngoài. Giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam so với các nước có trình độ tương đương thấp hơn nhiều. Vì thế, người tiêu dùng Australia chỉ biết một số ít thương hiệu hàng xuất khẩu Việt Nam.

Với thực trạng xuất khẩu hàng hóa sang Australia như hiện nay, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải khắc phục các mặt tồn tại, hạn chế để thúc đẩy hoạt động này phát triển tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của nước ta và nhu cầu nhập khẩu của phía Australia.



- V​ới góc độ Tham tán thương mại, ​theo bà những bất cập trên cần giải quyết như thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Để tận dụng tốt nhất cơ hội mà Hiệp định AANZFTA cũng như Hiệp định TPP mang lại, theo tôi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Australia và những ưu đãi mà hàng xuất khẩu Việt Nam được hưởng trong các Hiệp định này.

Thực tế hiện nay, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia khá đơn điệu và chất lượng hàng còn nhiều bất cập khi so sánh với cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh khác, do vậy, các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư đổi mới công nghệ và chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000, HACCP,...) đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường.

Nếu muốn trụ vững trên thị trường Australia, các doanh nghiệp Việt Nam phải hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, bởi chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. ​​Đặc biệt, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết để có thể cạnh tranh tốt hơn.

Một điểm nữa cần lưu ý là khi hàng xuất khẩu đã có chỗ đứng trên thị trường thì nhất thiết doanh nghiệp phải đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hóa, tránh bị mất hay tranh chấp thương hiệu.

- Xin cảm ơn bà.

cafeF.vn

Luật Doanh Nghiệp đang được điều chỉnh để đáp ứng TPP

(Sàn thương mại điện tử B2B Việt Nam NOCNDEAL) - Những thay đổi trong Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) cho thấy Việt Nam đã chủ động trong cải cách thể chế, ngay trước khi ký kết Hiệp định TPP.




Sự chủ động của Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương(TPP), với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, cho thấy tư duy sắc bén và tầm nhìn xa trông rộng của các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Nhưng tự thân TPP không mang đến cho Việt Nam tất cả những thành quả như mong muốn nếu Việt Nam không chủ động và không hành động để thích ứng với TPP trong điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế thấp và còn nhiều khó khăn.

Trong bài viết đầu xuân Bính Thân của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thay đổi, nâng cao chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh được nhấn mạnh như một yếu tố quyết định để thành công với TPP. Theo đó, Nhà nước sẽ phải chủ động để có những cải cách, thay đổi nhiều nhất, từ đó tạo ra thể chế kinh tế chất lượng, đảm bảo có một nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, nguồn lực được phân bổ công bằng.

Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã nêu rõ: Người dân được quyền làm mọi việc mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước muốn cấm, hạn chế quyền của người dân phải thể hiện được điều đó trong luật. Tất cả những thay đổi đó cho thấy Việt Nam đã chủ động trong cải cách thể chế, ngay cả trước khi ký kết TPP.

Hệ thống pháp luật đã và đang tiếp tục được điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với các cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các Hiệp định thế hệ mới. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là hợp tác, làm ăn với nhiều bạn hàng, đối tác trên thế giới. Bởi vậy, hiểu và nắm rõ các quy định pháp luật, đồng thời điều chỉnh lại các quy định được coi là không thích ứng với yêu cầu hội nhập là vấn đề đáng quan tâm lúc này.

Nhiều nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng định rằng, thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế.

Thể chế tốt, bảo đảm Nhà nước pháp quyền, quyền dân chủ của người dân và phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại sẽ khơi dậy được cao nhất sức mạnh tổng hợp và các nguồn lực cho sự phát triển. Và như vậy, thể chế có vai trò quyết định đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước trong giai đoạn mới này là rất quan trọng. Vậy muốn thay đổi, việc đầu tiên là phải bắt đầu định vị được mối quan hệ Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp.

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do với EU sẽ tạo thêm xung lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong việc thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các nền kinh tế lớn nhất thế giới; trong đó, EU với GDP trên 18.000 tỷ USD và TPP với GDP trên 20.000 tỷ USD. Nhưng khó khăn và thách thức đối với Việt Nam cũng không nhỏ. Nhà nước sẽ phải là chủ thể đưa ra những cải cách, thay đổi, để từ đó tạo ra thể chế kinh tế chất lượng.

Hiệp định TPP sẽ mở ra một sân chơi mới với người tham gia là nhiều quốc gia phát triển, với những bộ máy năng động. Chính trong sân chơi này, không chỉ doanh nghiệp, người dân mà Nhà nước cũng sẽ phải có sự cạnh tranh. Vì chỉ với những nền tảng thể chế cởi mở, minh bạch, những lợi ích từ TPP từ dự báo mới có thể được hiện thực hóa.

CafeF.vn

Doanh nghiệp chờ TPP để xuất khẩu sang Mỹ

(Sàn giao dịch TMĐT NOCNDEAL) - Nhiều doanh nghiệp bắt đầu rục rịch lên kế hoạch xuất khẩu sang Mỹ nhằm tận dụng lợi thế từ TPP mang lại




Đầu tháng 3 tới, Công ty Xuất khẩu Giày Liên Phát (Bình Dương) sẽ bắt tay thực hiện những lô hàng đầu tiên trong đơn hàng xuất đi Mỹ. Bà Trương Thúy Liên, Giám đốc Công ty Giày Liên Phát, cho biết để tận dụng lợi thế từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhiều khách hàng Mỹ đã đến Việt Nam đặt vấn đề gia công với doanh nghiệp (DN).

Muốn xuất cả tăm, nhang, mùn cưa… qua Mỹ

Theo bà Liên, để làm hàng cho nhà nhập khẩu Mỹ, Liên Phát phải đáp ứng các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và an ninh hàng hóa. Nghĩa là, mọi hàng hóa trong quá trình sản xuất đều phải có nguồn gốc rõ ràng và phía Mỹ sẽ giám sát quy trình này ở tất cả công đoạn. “Lần đầu tiên làm việc với DN Mỹ khá thuận lợi đang mở ra nhiều triển vọng lớn cho chúng tôi” - bà Liên hào hứng.

Một số nhà đầu tư trong ngành dệt nhuộm, may mặc, giày dép có nhà máy ở Trung Quốc cũng đã dời toàn bộ hoạt động sang Việt Nam nhằm đón đầu TPP bởi thị trường Mỹ quá hấp dẫn. Tham tán Công sứ thương mại Mỹ Đào Trần Nhân cho biết 99% giày dép bán tại Mỹ là hàng nhập khẩu. Thị trường này chỉ hơn 317 triệu dân nhưng tiêu thụ tới 2,5 tỉ đôi giày dép mỗi năm. Tính trung bình, mỗi người Mỹ sử dụng gần 8 đôi giày dép/năm. Hiệp hội Giày dép Mỹ ước tính nhờ TPP, thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam tại nước này sẽ tăng từ 12% lên 22% vào năm 2019.

Đại diện Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cho biết gần đây đã nhận được rất nhiều yêu cầu của DN hỏi thông tin để xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Trong đó, phần lớn DN cần tìm hiểu kỹ thị trường và những lợi ích do TPP mang lại. Ngay cả những DN nhỏ chuyên sản xuất tăm tre, trầm hương, nhang và cả mùn cưa nén thành viên nhỏ để đốt lò sưởi... cũng muốn tìm hiểu thông tin để xuất hàng đi Mỹ khi TPP có hiệu lực. “Mới đây, có DN đang làm về xử lý ảnh nhưng lại hỏi thủ tục để xuất khẩu vải, nhãn vào Mỹ!” - ông Nhân tiết lộ.

Coi chừng rào cản kỹ thuật

Theo ghi nhận của phóng viên Báo Người Lao Động, sau khi TPP được chính thức ký kết vào đầu tháng 2-2016, rất nhiều DN xuất khẩu đang tìm hiểu các quy định về thủ tục, rào cản kỹ thuật để đưa hàng sang Mỹ.

Ông Lê Minh Chánh, Giám đốc HTX Thanh Long Long Trí (tỉnh Long An), cho biết đang tìm hiểu các quy định liên quan đến rào cản kỹ thuật nhằm đưa thanh long xuất khẩu qua Mỹ. Hiện thanh long của Long Trí chủ yếu xuất qua Trung Quốc nhưng không ổn định nên DN muốn tìm một thị trường mới bền vững hơn. Khó khăn lớn nhất mà ông Chánh e ngại là các quy định về rào cản kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm (như dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật…) ở Mỹ rất phức tạp, không dễ tìm hiểu và thực hiện.

Theo ông Trần Quốc Thanh, thành viên HĐQT Tập đoàn Lộc Trời, khoảng 2 năm nay, DN này đã xuất khẩu gạo qua Mỹ. Đây là một thị trường rất lớn, hiệu quả về mặt kinh doanh và giá tốt nhưng vướng mắc lớn nhất vẫn là rào cản kỹ thuật. Chẳng hạn, những chỉ tiêu trong MRL (mức giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật) của cơ quan quản lý Mỹ đưa ra không rõ ràng khiến DN rất khó đáp ứng. “Thực tế, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không thua các nước như Thái Lan nhưng do chỉ xây dựng thương hiệu gần đây nên xuất qua Mỹ không đơn giản. Do đó, các DN trong ngành cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ phía nhà nước” - ông Thanh mong mỏi.

Liên quan đến những rào cản kỹ thuật mà Mỹ áp dụng đối với lĩnh vực nông - thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang làm việc với Mỹ để tìm hướng giải quyết. Đại diện Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cho biết phía Mỹ không quy định rõ hàm lượng, dư lượng chất kháng sinh cụ thể, trong khi quy chuẩn ở châu Âu và Nhật khá rõ. DN muốn xuất khẩu hàng thực phẩm, động vật vào Mỹ cần nghiên cứu kỹ nội dung trong quy định của Luật Hiện đại hóa về vệ sinh an toàn thực phẩm. Với mặt hàng thực phẩm và đồ uống, DN xuất khẩu cần lưu giữ hồ sơ từ khâu sản xuất, chế biến của từng lô hàng để truy xuất nguồn gốc khi cần. Nếu DN từ chối, không cho kiểm tra, đồng nghĩa với việc sẽ bị từ chối xuất khẩu vào Mỹ.

“Một loại quả của Việt Nam muốn được xuất sang Mỹ cần 5-6 năm. Hiện chỉ có 4 loại: thanh long, chôm chôm, nhãn và vải của Việt Nam được phép chính thức xuất sang Mỹ. Chúng tôi đang làm việc để xoài và vú sữa có tên trong danh sách trái cây được nhập khẩu thị trường này. Trong khi đó, rất nhiều DN đã liên hệ với thương vụ để xin xuất khẩu đủ loại trái cây, như: chanh tươi, chanh dây…” - ông Nhân cho biết.

Phải hiểu để làm ăn với Mỹ

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, Mỹ là thị trường lớn, có sức tiêu thụ rất cao nhưng hiện nay, đa số DN Việt Nam quy mô vừa và nhỏ nên không đáp ứng được đơn hàng lớn. Chẳng hạn, các hệ thống siêu thị của Mỹ đều là những tập đoàn hàng đầu thế giới, như Walmart có doanh số hằng năm gần 500 tỉ USD. Muốn bán hàng cho đại siêu thị này, cần những đơn hàng lớn nhưng lại vượt quá tầm của DN Việt. Do đó, các DN muốn làm ăn với Mỹ cần tính đến chuyện liên kết, hợp tác với nhau.
Sự ra đời của sàn giao dịch thương mại điện tử B2B tại NOCNDEAL.com phục vụ riêng cho các nước thành viên TPP là một trong những giải pháp rất hữu ích để hiện thực hóa  việc xuất hàng qua Mỹ đạt chuẩn TPP. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia sàn NOCNDEAL sẽ được chuyên gia tư vấn kỹ về TPP, những điều cần thực hiện để sản phẩm của doanh nghiệp được xác nhận đạt chuẩn TPP.

cafeF.vn 

Con đường của doanh nghiệp dệt may trong thời gian hội nhập TPP?

(Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL) Trước thách thức của dệt may Việt Nam khi chạm ngưỡng cửa Hiệp định TPP, với kinh nghiệm hơn 30 năm trong nghề, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty CP May Hưng Yên, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên cho rằng, Việt Nam đang làm tốt khâu may thì chỉ nên tiếp tục làm tốt khâu đoạn này, "một nghề cho chín…"

>> Doanh Nghiệp Cần Chú Ý Đến Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Trong Thời Đại TPP
>> Tổng Thống Mỹ Obama Tin Tưởng Quốc Hội Thông Qua TPP
>> Dệt May Có 1 Chương Riêng Trong Hiệp Định TPP



Câu chuyện của dệt may trong TPP đang mở ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp trong ngành. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này?

Quy tắc chủ đạo của dệt may trong TPP là “yarn forward” hay còn gọi là “từ sợi trở đi”. Quy tắc này được hiểu một cách chung nhất là tất cả công đoạn sản xuất hàng dệt may bao gồm kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối TPP.

Tuy nhiên, TPP cũng chấp nhận một số mặt hàng được áp dụng quy tắc “cắt và may” đối với những sản phẩm gồm vali, túi xách, quần áo trẻ em tổng hợp…

Chính vì lẽ đó nên chúng tôi đang tìm cách triển khai đến các doanh nghiệp phải khai thác trước những lợi thế này. Lộ trình 5 năm tới sẽ cần đầu tư một số mặt hàng có lợi thế đáp ứng được yêu cầu của “yarn forward”.

Đây có phải là điểm khó nhất của doanh nghiệp dệt may khi tham gia TPP?

Đúng vậy, điều này đỏi hỏi trong vài năm tới chúng ta phải đáp ứng được vải hoàn tất, trong khi đó, hầu hết doanh nghiệp đang thiếu vốn đề đầu tư. Hai là doanh nghiệp cũng đang yếu về kỹ thuật. Do đó con đường sắp tới là phải “lôi kéo” doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, chúng ta là người góp vốn, cổ phần, có thể “đối tác” đầu tư tới 90% vốn nhưng phải cam kết bao tiêu sản phẩm đầu ra. Đó là con đường của doanh nghiệp dệt may trong thời gian tới.

Tổng kết năm 2015, ngành Dệt may đã không đạt được mục tiêu đề ra là 27,5 tỷ USD, theo ông nguyên nhân là do đâu?

Tại sao năm 2015 tăng trưởng của dệt may cũng như một số ngành hàng khác như thủy sản không đạt mục tiêu đề ra? Theo tôi có một nguyên do khá lớn là vấn đề tỷ giá.

Trong khi các nước đều hạ giá đồng tiền so với USD, ví dụ Nhật Bản hạ giá tới 17%, châu Âu 18% nhưng Việt Nam chỉ nới room từ 2 lên 4%, cộng trừ 2 nghĩa là chỉ tăng được 2% và cộng trừ 2 thôi, đương nhiên hàng Việt Nam trở thành hàng đắt, mà đắt đương nhiên thị trường thế giới sẽ chọn hàng rẻ hơn.

Bắt đầu từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tỷ giá trung tâm, không phải theo số liệu liên ngân hàng nữa mà theo cơ chế thị trường nhưng tôi cho rằng thực sự vẫn chưa linh hoạt. Nếu so sánh với tất cả đồng tiền trong ASEAN hay những thị trường xuất khẩu lớn như Nhật Bản hay châu Âu, chúng ta đều chưa bằng.

Vậy theo ông, triển vọng 2016 đối với doanh nghiệp sẽ như thế nào?

Năm 2016 chúng tôi xác định vẫn là những khó khăn. Hiện doanh nghiệp thế giới vẫn đang tìm nơi nào cung cấp sản phẩm có giá tốt, bởi trong thương mại, giá là vấn đề đầu tiên doanh nghiệp quan tâm. Do đó, chúng ta phải làm tốt được vấn đề này.

Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không thể trông chờ tất cả vào Nhà nước mà phải tự điều chỉnh. Điều chỉnh ở đây là nâng cao năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động để giảm những chi phí đầu vào tăng như bảo hiểm xã hội, phí công đoàn…

Tôi cũng rất quan tâm đến vị trí của doanh nghiệp Việt trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Muốn có một sản phẩm dệt may cần có nhiều công đoạn, từ trồng bông, dệt sợi đến cắt may, phân phối. Tôi cho rằng, nếu chúng ta đang làm tốt khâu may, tốt nhất vẫn nên làm tốt khâu này. Trung Quốc nhận cắt may một áo sơ mi với giá 90 xu, nếu ta nhận với giá 85 xu, ta sẽ lấy được mối hàng còn nếu nhận với giá 1 đồng thì không ai giao hàng cả. Con đường duy nhất là làm tốt một khâu nào đó trong chuỗi thì mới tham gia được trong chuỗi liên kết toàn cầu.

Cá nhân ông có kỳ vọng gì trong năm 2016?

Doanh nghiệp đang rất kỳ vọng vì thành công của Đại hội Đảng XII và tháng 5 tới sẽ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Chắc chắn với tư tưởng đổi mới của Đại hội Đảng, nhiều vấn đề sẽ được cải cách.

Trong năm 2015 Chính phủ đã thực hiện được nhiều vấn đề cải cách. Theo đà này, nhiều lĩnh vực sẽ không chỉ đạt được tiêu chuẩn của ASEAN 6 mà có thể là ASEAN 3, có nghĩa là môi trường sẽ rất thông thoáng cho doanh nghiệp hoạt động và phát triển.

Số lượng doanh nghiệp thành lập trong năm 2015 tăng đột biến, tôi tin rằng trong năm 2016 này, sức sống của doanh nghiệp sẽ tốt hơn, doanh nghiệp sẽ đón nhận nhiều điều mới hơn trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Báo Hải Quan Online

Doanh nghiệp cần chú ý đến quyền sở hữu trí tuệ trong thời đại TPP

(Sàn giao dịch thương mại điện tử B2B NOCNDEAL) - Tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt Nam là thành viên đòi hỏi các doanh nghiệp (DN) nói chung và đặc biệt là các DN khởi nghiệp phải đáp ứng những tiêu chuẩn cao về thương mại, sở hữu trí tuệ (SHTT), thực thi quyền SHTT. 







Theo TS. Lê Hoài Quốc- Trưởng Ban quản lý Khu công nghệ cao TP.Hồ Chí Minh, sự sống còn của một DN nói chung và DN khoa học công nghệ khởi nghiệp phải phát triển được ít nhất một tài sản trí tuệ (công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, giống cây trồng...) và tài sản trí tuệ đó phải có khả năng bảo hộ độc quyền SHTT.

Ngoài ra, các DN cũng cần hỗ trợ trong việc thực hiện thủ tục kiểm định, kiểm nghiệm và lưu hành sản phẩm, hỗ trợ về sử dụng dịch vụ SHTT và tổ chức quản trị tài sản trí tuệ, kết nối thương mại và chuyển giao công nghệ, đàm phán và tham gia kênh phân phối... Nếu không khi được thị trường ưa chuộng, sản phẩm bị các đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh hơn nhảy vào đầu tư thì DN khởi nghiệp gần như không thể bảo vệ hoặc phát triển được thị phần.

Đánh giá của Hội SHTT TP.Hồ Chí Minh cho thấy trên lĩnh vực SHTT về nhãn hiệu, hiện nay, nhãn hiệu nổi tiếng của Việt Nam còn rất ít, thậm chí Việt Nam cũng chưa có bộ tiêu chí cụ thể để nhận biết như thế nào là một nhãn hiệu nổi tiếng. Trong khi các nhãn hiệu nổi tiếng của nước ngoài tại Việt Nam lại rất nhiều. Do vậy, việc trùng tên, giống nhau giữa các thương hiệu là có thể và như thế sẽ bất lợi cho DN Việt Nam. Vì thế nếu DN Việt có sản phẩm đang bán chạy tại nội địa thì phải tranh thủ đăng ký quyền SHTT trước để ngăn ngừa rủi ro về sau.

Bên cạnh đó, khi nền kinh tế tham gia ngày càng sâu vào các hiệp định thương mại tự do nhất là với hiệp định TPP khi mà các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh của TPP rất mạnh, mức độ bảo hộ quyền SHTT rất lớn, chủ sở hữu quyền được bảo hộ cao hơn. Trong đó, những yếu tố về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế, bí mật thương mại, quyền tác giả và các quyền liên quan được xem là quan trọng hơn cả. Do đó các DN Việt Nam phải nghĩ đến tất cả những tình huống mà đối thủ cạnh tranh có thể gây ra để có sự chuẩn bị bảo vệ mình một cách hữu hiệu nhất.

TS.Nguyễn Hồng Quang - Trưởng phòng Quản lý Khoa học- Trường Đại học Quốc tế - Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh cho rằng, để thực thi quyền SHTT, các DN phải chủ động phát huy hoạt động quản trị tài sản trí tuệ của DN mình một cách hiệu quả và cần có nhân sự được đào tạo chuyên môn về quản trị tài sản trí tuệ trong DN. 

Tại TP.Hồ Chí Minh, trong giai đoạn 2011 – 2015, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Viện Khoa học Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã tổ chức Chương trình đào tạo quản trị viên tài sản trí tuệ. Đây cũng là chương trình đầu tiên trong cả nước hướng đến việc hỗ trợ các DN, trường, viện tự xây dựng hoạt động SHTT và quản trị tài sản trí tuệ trong nội bộ.

Nguồn: Báo Công Thương Điện Tử

TPP và nỗi lo lao động ngành nông nghiệp

(Sàn thương mại điện tử b2b NOCNDEAL) - Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở cho Việt Nam thị trường xuất khẩu rộng lớn với nhiều mặt hàng nông nghiệp chủ lực; ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kỹ năng lao động... Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn...

Cảnh báo dư thừa lao động nông nghiệp 

Hiện Việt Nam có khoảng 46% lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, trong đó chỉ khoảng 250.000 lao động làm việc trong các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp hoặc các hợp tác xã. Còn lại khoảng 23 triệu lao động trong khu vực phi chính thức, đó là kinh tế hộ gia đình hoặc các công việc không ổn định khác. Bên cạnh niềm vui TPP được thông qua, là góc khuất về số phận của những lao động phi chính thức này. Tham gia vào TPP, doanh nghiệp Việt nếu cạnh tranh được sẽ lớn mạnh lên, ngược lại một số khác có thể bị thay thế bởi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI); hàng nhập khẩu của các nước phát triển có tính cạnh tranh cao hơn hàng sản xuất trong nước, sẽ làm cho nông dân mất việc làm. “Hàng hóa nông nghiệp, đặc biệt là sản phẩm chăn nuôi từ Mỹ, New Zealand sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất cao với ngành chăn nuôi, bởi các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nói chung là có tiêu chuẩn thấp hơn các nước thành viên TPP. Do đó nếu dựng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ thị trường trong nước thì sẽ vi phạm điều khoản chống phân biệt đối xử đã ký kết trong TPP”, ông Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ NN&PTNT) phân tích.

Tại một số cuộc hội thảo bàn về nông nghiệp Việt trước thách thức và vận hội từ TPP mới đây, các chuyên gia đều cho rằng, lao động đang làm việc trong khu vực phi chính thức cả ở nông nghiệp và thành thị hiện đang đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Nếu quá chú trọng vào phát triển những ngành công nghệ cao (thường là thâm dụng vốn) sẽ đẩy nền kinh tế nước ta vào tình trạng lưỡng phân: Một khu vực cạnh tranh được, có năng suất lao động cao, thu nhập tăng và một khu vực bị đẩy vào những thị trường phi chính thức không có năng lực cạnh tranh, thu nhập ngày càng giảm. Điều này sẽ làm gia tăng bất bình đẳng trong xã hội, tăng nguy cơ bất ổn xã hội như dự báo của một số nghiên cứu gần đây.

Ở góc nhìn khác, sự thay đổi về phương thức sản xuất ở trong nước khi đã thích ứng với môi trường cạnh tranh từ bên ngoài buộc phải chuyển sang sản xuất lớn, quy mô công nghiệp, nhưng sản xuất lớn với quy mô công nghiệp sẽ làm cho nhu cầu lao động giảm xuống. “Đơn cử, nếu vẫn sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay, thì có thể cần một nghìn người, thậm chí cả vạn người để tham gia sản xuất chăn nuôi. Nhưng nếu đầu tư trang trại quy mô chuẩn, thì chỉ cần vài trăm người là có thể sản xuất quy mô lớn. Như vậy, số lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ dư thừa lớn” - ông Lê Văn Bảnh cảnh báo.

Chế biến tôm xuất khẩu.

Cần hình thành các cụm liên kết ngành

Trước thực tế này, các chuyên gia nhận định, để lao động nông nghiệp Việt Nam không bị “lao đao” khi hội nhập, cần phải nhanh chóng hình thành nên các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn và từ đó tạo lập nên các mối liên kết với các doanh nghiệp nhỏ làm các nhà cung ứng đầu vào, cung ứng các dịch vụ đầu ra, liên kết với các tổ chức cung ứng dịch vụ cần thiết như kỹ thuật, lao động, tư vấn… để hình thành nên các cụm liên kết ngành. Sức mạnh cạnh tranh mang tính toàn cụm và do các doanh nghiệp dẫn đầu kiểm soát. Việc làm sẽ được tối đa hóa nếu hình thành được các cụm liên kết ngành.

Trong bối cảnh hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và sắp được ký kết đang đặt ngành nông nghiệp trước yêu cầu phải gấp rút tái cơ cấu. Thế nhưng, làm thế nào để có nguồn lực tái cơ cấu và làm thế nào để hộ nông dân cá thể hội nhập thành công hiện vẫn là bài toán khó. Về điều này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng thừa nhận, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với khá nhiều thách thức, bởi năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Một khi phương thức sản xuất manh mún, lạc hậu, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu thì rất khó đáp ứng quy tắc xuất xứ nên hàng hóa khó được các nước yêu cầu tiêu chuẩn cao chấp nhận. Điều này kéo theo việc tạo công ăn việc làm, giải quyết lao động trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ trở nên khó khăn.

Với hơn 90 triệu dân, trong đó hơn 70% dân số sống ở nông thôn, hỗ trợ phát triển nông nghiệp cũng là hỗ trợ cho đại đa số người dân. Thế nhưng, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao cũng không thể rập khuôn theo cách làm của thế giới, mà phải dựa trên đặc điểm riêng của Việt Nam. Việt Nam có điều kiện tự nhiên thích hợp cho phát triển nông nghiệp, song đất đai lại manh mún, doanh nghiệp nhỏ lẻ, lao động tuy dồi dào nhưng trình độ thấp...

Do vậy, phát triển nông nghiệp công nghệ cao phải theo hướng vừa tận dụng được lợi thế tài nguyên, lao động, vừa liên kết được với nông dân, vừa giải quyết được lao động dư thừa... Đây là những vấn đề cần tính đến khi hiện đại hóa nông nghiệp khi gia nhập TPP. 

NGUYỄN THANH
Lao động và Xã hội

Tổng thống Mỹ Obama tin tưởng Quốc hội thông qua TPP

(Sàn giao dịch thương mại điện tử B2B NOCNDEAL) - Giới phân tích nhận định, việc thúc đẩy thông qua TPP sẽ là một thành tựu mang tính di sản trong năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama.




Ngày 22/2, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bày tỏ "lạc quan một cách thận trọng" rằng Quốc hội nước này sẽ ủng hộ Hiệp định Đối tác xuyên Đại Tây Dương (TPP) mà chính quyền của ông đã ký với các nước châu Á.

Phát biểu với các thống đốc bang tại Nhà Trắng, Tổng thống Obama cho biết ông sẽ phải dựa vào các cử tri ủng hộ TPP thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa bởi vì các lãnh tụ công đoàn đã phản đối thỏa thuận thương mại này.

Ông Obama lưu ý rằng thủ lĩnh phe đa số tại Thượng viện do Đảng Cộng hòa kiểm soát Mitch McConnell và Chủ tịch Hạ viện, Thượng nghị sỹ Cộng hòa Paul Ryan đã ủng hộ mạnh mẽ thỏa thuận này.

Giới phân tích nhận định, việc thúc đẩy thông qua TPP sẽ là một thành tựu mang tính di sản trong năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama.

CafeF.vn

Việt Nam được lợi 10,5 tỷ USD từ thị trường Nhật Bản khi TPP có hiệu lực

(Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEAL.com) - Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản (tương đương 10,5 tỷ USD) ngay khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực, và vào năm thứ 11 xóa bỏ đối với khoảng 95,6% số dòng thuế.




Đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của Việt Nam được hưởng thuế suất 0% ngay sau TPP có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ....

Ngày 04/02/2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã chính thức được ký kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ vàViệt Nam, có quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu. 

Theo Bộ Tài chính, các nước tham gia TPP xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng hóa của các thành viên. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014)

Đối với nông sản từ Việt Nam, Nhật bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc cắt giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số mặt hàng nhạy cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng.

Nhiều mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam – Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ... Toàn bộ các dòng hàng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam – Nhật Bản sẽ được xóa bỏ trong TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.

Đối với mặt hàng rau quả, Nhật Bản cam kết mức thuế 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Mặt hàng mật ong sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 8.

Trong khi đó, đối với mặt hàng giày dép thì 79,5 % kim ngạch các xóa bỏ thuế vào năm thứ 10 và các mặt hàng còn lại (giày da) sẽ xóa bỏ thuế suất vào năm thứ 16. Mặt hàng vali, túi xách bằng da sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 16.

Bên cạnh đó, đối với mặt hàng dệt may thì 98,8% số dòng thuế sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản. Những mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế vào năm thứ 10.

Nguồn: doanhnghiepvn

Dệt may có 1 chương riêng trong hiệp định TPP

(Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL) - Theo Bộ Công thương, Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam tham gia có chương riêng về dệt may.




Ngoài việc áp dụng các quy định chung như các hàng hóa khác trong các chương Thương mại Hàng hóa, Quy tắc Xuất Xứ, Phòng vệ Thương mại, Hợp tác Hải quan, dệt may có những quy định riêng mang tính đặc thù bao gồm 3 nội dung chính: Mở cửa thị trường (lộ trình xóa bỏ thuế quan); quy tắc xuất xứ và biện pháp tự vệ và hợp tác hải quan. Ngoài ra, Việt Nam có 2 thỏa thuận song phương với Hoa Kỳ và Mexico về cơ chế đăng ký doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may.

Theo Bộ Công thương, dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào thị trường TPP, đạt 11,2 tỷ USD năm 2014 (chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước TPP), trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 9,8 tỷ USD. Đây là một trong những mặt hàng được kỳ vọng sẽ hưởng lợi nhiều từ Hiệp định TPP vì Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và thuế suất của các nước thành viên TPP mà Việt Nam chưa ký FTA đang ở mức khá cao như Hoa Kỳ 17,5%, Canada 17%, Mexico 30% và Peru 17%. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 hiện thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% nhưng cũng được kỳ vọng có khả năng tăng trưởng tốt khi hàng dệt may xuất khẩu được áp dụng linh hoạt về quy tắc xuất xứ và được phép cộng gộp xuất xứ nguyên liệu trong các nước TPP.

Về thị trường Hoa Kỳ, 73,1% số dòng thuế sẽ được đưa về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm thuế từ 35% đến 50% so với thuế MFN tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 11 và 13; 7,2% số dòng thuế sẽ có thuế suất bằng 0% vào năm thứ 6. Nếu tính theo kim ngạch xuất khẩu năm 2014, ngay khi hiệp định có hiệu lực, hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ có khả năng tiết kiệm được 63,5% tiền thuế nhập khẩu, tương đương 1,1 tỷ USD nếu đáp ứng được quy tắc xuất xứ của Hiệp định.

Về thị trường Canada, toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. 42,9% kim ngạch xuất khẩu vào Canada có thuế 0% năm đầu tiên và 57,1% kim ngạch có thuế 0% vào năm thứ 4.

Mexico và Peru là 2 nước sản xuất và xuất khẩu dệt may lớn nên duy trì chính sách bảo hộ cao đối với ngành công nghiệp này. Thuế nhập khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16. Ngoài ra, Mê-hi-cô áp dụng hạn chế định lượng đối với một số mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu được hưởng thuế 0% nhưng sử dụng nguyên liệu thuộc danh mục nguồn cung thiếu hụt hoặc danh mục “cắt và may” được nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP.

Theo Bộ Công thương, hàng hóa xuất khẩu muốn được hưởng thuế suất thuế ưu đãi theo Hiệp định TPP phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi” hay được gọi quy tắc “3 công đoạn”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối TPP. Quy tắc này khuyến khích phát triển ngành công nghiệp dệt may theo ngành dọc, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong nội khối TPP và khối cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, Hiệp định quy định một số trường hợp có quy tắc xuất xứ linh hoạt hơn như: 3 nhóm hàng may mặc được áp dụng quy tắc xuất xứ 1 công đoạn, cắt và may, gồm: vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp. Danh mục nguồn cung thiếu hụt gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ ngoài khu vực TPP, trong đó 186 mặt hàng sẽ được áp dụng vĩnh viễn và 8 mặt hàng chỉ được áp dụng cơ chế này trong 5 năm.

Ngoài ra, cơ chế 1 đổi 1 áp dụng với quần nam nữ bằng vải bông xuât khẩu sang Hoa Kỳ. Doanh nghiệp mua 1 đơn vị vải bông thích hợp làm quần có xuất xứ từ Hoa Kỳ sẽ được phép sử dụng 1 đơn vị vải bông nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP để may quần xuất khẩu sang Hoa Kỳ và hưởng thuế 0%; tỷ lệ quy đổi giữa vải bông xuất xứ Hoa Kỳ và vải bông được phép nhập khẩu ngoài khối TPP khác nhau giữa quần nam và quần nữ...

N.Y

Câu chuyện về TPP của Phó vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế

Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL - Với vóc dáng nhỏ nhắn, phong thái giản dị, chân thật nhưng sâu sắc và hóm hỉnh, câu chuyện của anh về một Hiệp định TPP “rất to tát” lại được chuyển tải một cách thật nhẹ nhàng, đơn giản. Anh là Hà Duy Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính - Trưởng nhóm Hàng hóa của Đoàn đàm phán TPP Việt Nam.




Không phải ngày một ngày hai, TPP được "bàn" đến trong suốt 7-8 năm. Vậy những ngày đầu, chúng ta đã "tham gia" như thế nào. Anh còn nhớ không?

Khoảng năm 2008-2009, Hoa Kỳ và một số nước có đến Việt Nam để giới thiệu về TPP thì tôi đã được tham gia nghe và trao đổi về Hiệp định này. Khi đó, họ giới thiệu cho chúng ta biết về TPP với những khái niệm còn rất chung, rất nhiều nội dung chúng ta cũng chưa định hình và hiểu rõ được. Những nội dung cụ thể đầy đủ hơn về sau này đã được xây dựng dần qua quá trình đàm phán.

Tôi còn nhớ, trong 3 phiên đàm phán đầu tiên, Việt Nam chỉ tham gia với vai trò là quan sát viên đặc biệt, hay còn gọi là thành viên liên kết, được phép dự đàm phán, được tham gia ý kiến nhưng không được biểu quyết. Nhưng giai đoạn đó cơ bản là trao đổi quan điểm nên vai trò của Việt Nam cơ bản cũng như 7 nước thành viên khác khi đó là Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei, Úc và Peru.

Tham gia đàm phán TPP có nhiều nhóm, mỗi nhóm phụ trách một lĩnh vực cụ thể. Nhóm hàng hoá gồm đại diện Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và tôi, với vai trò là đại diện Bộ Tài chính, được giao nhiệm vụ làm trưởng nhóm, điều phối trong nhóm.

Trong nhóm thì đại diện của mỗi cơ quan có nhiệm vụ rất rõ ràng, như Bộ Công Thương phải đảm bảo đối tác đàm phán phải mở cửa cao nhất cho ta, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì tập trung vào lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản, còn Bộ Tài chính thì đảm bảo mở cửa thị trường cho hàng hoá của các đối tác ở mức phù hợp nhất. Vì vậy, phải điều phối để các mục tiêu trên đều đạt kết quả cao nhất. Nói cho dễ hiểu là "đi mặc cả", xem "vốn" của mình ít hay nhiều để "mặc cả" cho phù hợp.

Vậy cụ thể đàm phán được tiến hành thế nào? Nghe nói công việc "đàm phán" rất vất vả, nặng nhọc, không chỉ "đấu" trí mà thời gian cũng rất áp lực. Với TPP, chúng ta có thế không?

Khi tham gia đàm phán, có những phiên làm chung với các nước, có phiên làm song phương với từng nước. Trong một ngày, một đoàn đàm phán có thể có một hoặc nhiều hoạt động như thế diễn ra liên tục. Cuối ngày, cả đoàn họp lại với nhau để báo cáo phần công việc của mình và xin ý kiến Trưởng đoàn để có hướng xử lý trong những ngày đàm phán tiếp theo.

Trên cơ sở những nội dung đã chuẩn bị và xin chỉ đạo về chủ trương từ nhà (ở Việt Nam-PV), chúng tôi chuẩn bị nhiều kịch bản, phương án đàm phán trong khuôn khổ đấy. Cách thức phối hợp phải thật nhịp nhàng sao cho cả đoàn như một cỗ máy đồng điệu, vận hành trơn tru, cùng nhau hoàn thành tốt dưới sự chỉ đạo từ nhà và điều phối của đồng chí Trưởng đoàn.

Tính chính thức thì có 19 vòng đàm phán, ngoài ra còn có những vòng không chính thức và rất nhiều các phiên đàm phán song phương với từng nước đối tác trong TPP. Tổng cộng khoảng 40 vòng.

Trong số đó thì có những phiên đàm phán chung kéo dài khoảng 1-2 tuần với sự tham gia thảo luận của cả 12 nước thành viên về những vấn đề chung. Ngoài ra, còn có những phiên đàm phán riêng với từng nước thành viên để xử lý các mối quan tâm chung của hai bên. Thậm chí, chỉ thảo luận trong các phiên đàm phán thôi cũng chưa đủ, hai nước còn gặp mặt thêm (đàm phán song phương) để giải quyết những khúc mắc, tồn đọng. Quá trình đó diễn ra liên tục trong suốt hơn 5 năm.

Nói chung việc đàm phán khá căng thẳng, nhất là khi các nước tổ chức đàm phán tại Nam Mỹ như ở Peru hay Chile vì sau một chặng đường dài có khi mất tới gần 48 tiếng từ lúc rời Việt Nam mới đến được Peru hay Chile thì ngay sau đó phải bắt tay vào đàm phán. Thậm chí trên đường đi cũng đã phải thu xếp lịch đàm phán song phương cũng như chuẩn bị các nội dung làm việc.


Tham gia đàm phán TPP có khá nhiều nước lớn, Việt Nam có sợ “bị bắt nạt” không?

Cũng phải xác định mình cần họ, họ cũng cần mình, như vậy thì 2 bên là đối tác của nhau. Đàm phán thành công thì lập luận phải tốt, họ lập luận tốt thì ta nghe, ta lập luận tốt thì họ cũng phải nghe. Tâm niệm như vậy để ta không phải "sợ" họ và nói chung đôi lúc cũng phải "rắn" và "liều" (cười).

Đối tác nào theo anh là khó đạt được thỏa thuận nhất?

Những nước có lợi ích là khó đàm phán nhất. Như với Hoa Kỳ là đối tác quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất của Việt Nam trong TPP thì những mặt hàng của chúng ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ là những mặt hàng được bảo hộ ở mức cao nên quá trình đàm phán khá khó khăn, hay họ đòi ta mở cửa thị trường rất nhanh cho những mặt hàng mà họ có thế mạnh. Hoặc như với Mexico thì họ cũng rất lo ngại các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, da giày…

Nếu định lượng, anh nghĩ, chúng ta đã đạt được bao nhiêu % mục tiêu đặt ra?

Một ngày cuối năm bận rộn, tại căn phòng nhỏ với những chồng tài liệu khổng lồ, chúng tôi có cơ hội được trò chuyện với một chuyên gia đàm phán hội nhập của Bộ Tài chính.

Mục tiêu lớn nhất của chúng tôi là làm sao mang về lợi ích nhiều nhất cho quốc gia. Định lượng thì rất vô cùng, con số là bao nhiêu còn tùy vào kỳ vọng của từng người đánh giá.

Riêng tôi, luôn xác định rằng đã đi đàm phán thì không bao giờ chỉ được mà không mất gì. Chúng ta buộc phải mở cửa thị trường ở trong khuôn khổ có thể chấp nhận được và khi các nước mở cửa thị trường cho Việt Nam thì chắc chắn phải trên mức mình chấp nhận được. Nếu họ đòi hỏi quá cao hoặc mở cửa dưới mức mình yêu cầu thì chưa thể kết thúc đàm phán.

TPP được xem như một sự kiện lớn đối với Việt Nam, thậm chí có thể còn quan trọng hơn cả thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Rất nhiều kỳ vọng, nhiều phân tích, bình luận, nhận định. Liệu chúng ta có đang "thổi phồng" quá những lợi ích, tác động mà TPP mang lại?

Sau khi chúng ta gia nhập WTO thì ai cũng nói đến WTO. Bây giờ là TPP thì công chúng và báo chí cũng "xôn xao" như vậy. Có thể thấy sự “xôn xao” ấy xuất phát từ quy mô của Hiệp định. Như WTO - đây là một tổ chức lớn, tạo ra những quy tắc thương mại toàn cầu, trong khi Việt Nam khi đó đang là nền kinh tế chuyển đổi. Hòa nhập vào WTO, Việt Nam phải sửa đổi cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với các cam kết. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng.

TPP cũng tương tự. Với hàng nghìn trang văn kiện, hàm lượng nội dung đồ sộ hơn trong nhiều lĩnh vực. Khác với các Hiệp định thương mại tự do đã ký, TPP có phạm vi rộng hơn, mức độ cam kết sâu hơn, từ đó tác động lớn hơn và buộc ta sẽ phải có nhiều điều chỉnh cơ chế chính sách. Hiện nay, dù chưa thực hiện TPP, chúng ta vẫn đang tái cơ cấu nền kinh tế để phù hợp hơn với xu hướng hội nhập. Thêm TPP, nền kinh tế nước ta sẽ có thêm cú hích, thêm động lực, thêm sức ép để quyết tâm tái cơ cấu mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên cũng phải nói điều đó có xảy ra không còn tuỳ thuộc TPP khi nào được ký kết và phê chuẩn có hiệu lực; và chúng ta cũng cần bình tĩnh, tỉnh táo để đánh giá, nhận định đầy đủ cơ hội cũng như thách thức của TPP.

Nhìn chung, mỗi nền kinh tế, dù có quy mô khác nhau, nhưng đều tồn tại các doanh nghiệp khác nhau từ lớn, vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Mỗi loại doanh nghiệp đều có phân khúc thị trường riêng và lợi thế riêng. Vấn đề là doanh nghiệp phải khai thác được lợi thế đó. Trong một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải tự thân là chính. Kết quả đàm phán chỉ đem lại cơ hội, còn biến cơ hội đó thành thực tế thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp.

Xin cảm ơn những chia sẻ của anh!

CafeF.vn

Năm 2016 xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sẽ đẩy mạnh vào 6 thị trường này

Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEALNăm 2016, xuất khẩu nông lâm thủy sản được dự báo sẽ có nhiều triển vọng do nhu cầu thị trường tăng và cơ hội được hưởng ưu đãi lớn về thuế, sức cạnh tranh tăng từ các Hiệp định thương mại tự do vừa kết thúc đàm phán.

>> Doanh Nghiệp Dệt May, Giày Da Lo Vì Chưa Hiểu Sâu Về TPP
>> Việt Nam Rất Có Giá Trong TPP
>> Góc Nhìn TPP - Phỏng Vấn Đại Sứ Hoa Kỳ Tại Việt Nam



Những mặt hàng nông sản có cơ hội tăng trưởng xuất khẩu trong năm 2016 như: hạt điều, hạt tiêu, gỗ, sắn và rau quả.

Theo đó, định hướng thị trường xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2016 sẽ tập trung vào những thị trường trọng điểm bao gồm Hoa Kỳ, thị trường châu Âu, ASEAN, Nga và các nước Đông Âu, Trung Quốc, châu Phi.

Trong các thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam, nền kinh tế Hoa Kỳ có dự báo khả quan nhất cho năm 2016 với nhu cầu của thị trường nội địa Hoa Kỳ sẽ tăng mạnh và dự báo sẽ vẫn tiếp tục có cầu ổn định đối với hàng hóa của Việt Nam.

Đó là thông tin vừa được đưa ra tại buổi Tọa đàm Thúc đẩy thương mại nông sản Việt Nam giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công Thương diễn ra ngày 18/2, tại Hà Nội.

Ông Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối cho biết, Hoa Kỳ là thị trường không quá khó tính và chưa yêu cầu cao về an toàn thực phẩm và chất lượng, việc tận dụng những ưu đãi từ TPP cũng sẽ là lợi thế cho nông sản Việt Nam trong thời gian tới.

Theo ông Bảnh, trong nhiều năm qua, các mặt hàng như gỗ và sản phẩm của gỗ, hàng thủy sản là những mặt hàng chủ lực, đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.

"Ngoài ra, Hoa Kỳ thường là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu các mặt hàng nông sản khác của Việt Nam như: hạt điều, hạt tiêu, càphê và sản phẩm mây tre cói thảm. Đây cũng là thị trường tiêu thụ lớn cao su, chè và rau quả Việt Nam," Cục trưởng Lê Văn Bảnh nói.

Sự hấp dẫn của thị trường Hoa Kỳ cũng đồng nghĩa với sự cạnh tranh xuất khẩu vào thị trường này rất quyết liệt, đặc biệt những đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam là Trung Quốc, Thái Lan và Indonesia - những nước tương đồng với Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu.

Mặt khác, những rào cản về kỹ thuật và thương mại cũng là khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam gần đây như: thuế chống bán phá giá tăng cao đối với cá tra, các yêu cầu của Chương trình thanh tra cá da trơn theo Farmbill 2014 có hiệu lực từ tháng 3/2016.

Do đó, năm 2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có kế hoạch tổ chức hoạt động đàm phán tháo gỡ khó khăn vướng mắc đối với cá tra và hoạt động kết nối doanh nghiệp. Dự kiến quý 2 năm 2016, Bộ sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu đối với sản phẩm chè tại Hoa Kỳ.

Bên cạnh đó, Hiệp định thương mại tự do với EU đã kết thúc đàm phán và mở ra cơ hội cho ngành nông nghiệp Việt Nam khi 90% hàng hóa vào thị trường này được hưởng mức thuế suất 0%.

Năm nay, ngành nông nghiệp tiếp tục duy trì sự hiện diện các ngành hàng nông lâm thủy sản tại thị trường truyền thống này, nhất là tập trung đột phá vào một số thị trường có mức cầu lớn, có lợi thế để thâm nhập sâu vào các nước châu Âu.

Để chủ động thích ứng với những biến động của kinh tế quốc tế, đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả thiết thực, có chiều sâu và sẵn sàng ứng phó với những vấn đề phát sinh trong thương mại nông lâm thủy sản, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Trần Thanh Nam đề nghị các cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài, cần tăng cường phối hợp và đảm bảo việc giải quyết kịp thời các rào cản kỹ thuật, các tranh chấp phát sinh trong thương mại nông, lâm thuỷ sản.

Thứ trưởng Nam cũng bày tỏ mong muốn, tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Công thương trong việc tiếp tục thúc đẩy mở cửa thị trường nông lâm thủy sản của Việt Nam ra quốc tế nhằm đa dạng hóa thị trường, giữ vững và phát triển thị trường khó tính, chú trọng các thị trường tiềm năng, dễ tính như các nước Trung Đông (UAE, Saudi Arabia, Iran...), các nước châu Phi, khai thác hiệu quả các thị trường truyền thống như ASEAN, EU. Đồng thời tìm kiếm và đa dạng các hình thức xuất khẩu mới.



Theo CafeF.vn

Doanh nghiệp dệt may, giày da lo vì chưa hiểu sâu về TPP

Ngày 4-2-2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam (các nước này có tổng quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu). Mặc dù được đánh giá sẽ là cơ hội lớn, tuy nhiên cho đến thời điểm này, không ít DN dệt may, giày da rất lo lắng bởi chưa nắm bắt được các vấn đề cụ thể trong TPP.



Ngành giày da chủ yếu vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước không tham gia TPP.

CÒN “MÙ MỜ” VỀ TPP

Đây là câu trả lời của rất nhiều DN trong ngành may mặc, giày da khi hỏi về TPP. Họ cho rằng, mặc dù có nghe nói đến TPP nhiều nhưng lại không nắm bắt được các điều khoản cụ thể. Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc Công ty May Bà Rịa (xã Tam Phước, huyện Long Điền) cho biết: “Chúng tôi có nghe nói nhiều đến TPP. Song thành thực mà nói, chúng tôi chưa hiểu TPP sẽ tác động cụ thể đến DN như thế nào”.

Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh cho biết thêm, Công ty May Bà Rịa đang sản xuất giày leo núi và trượt tuyết, mỗi năm xuất khẩu đi các nước châu Âu hơn 15.000 sản phẩm. Hầu hết các nguyên phụ liệu sản xuất của Công ty May Bà Rịa đều phải nhập khẩu. “Thậm chí, nút nhựa chúng tôi còn phải nhập khẩu từ Trung Quốc”, bà Hạnh nói.

Nguyên liệu nhập khẩu là một trong những thách thức lớn cho ngành dệt may, da giày khi TPP được ký kết. Vì thực hiện quy tắc xuất xứ của TPP, quy định hàng dệt may, da giày của Việt Nam nhập nguyên liệu từ các nước không tham gia hiệp định thì hầu như sẽ không được hưởng các ưu đãi. Hiện Việt Nam chủ yếu nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Riêng tại BR-VT, tỉnh vẫn đang chủ trương hạn chế thu hút đầu tư các lĩnh vực nhuộm, sợi, da thuộc do hệ lụy về ô nhiễm, thâm hụt lao động… Điều này cũng làm cho vấn đề nguyên liệu cung cấp cho các ngành dệt may, da giày trở nên khó khăn hơn.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Phong Thái (có 2 công ty đang hoạt động sản xuất về giày da, bóng golf và bóng da là Công ty TNHH Sản xuất giày Uy Việt và Công ty TNHH Đông Phương Vũng Tàu) cho biết, hiện tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu của Uy Việt chiếm khoảng 60%, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… Trong khi đó, các nước này lại không tham gia TPP nên khó hưởng các ưu đãi từ Hiệp định này.

Ngành dệt may được hưởng nhiều ưu đãi từ TPP.

CẦN THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ MAY MẶC

Theo bà Bùi Thị Dung, Giám đốc Sở Công thương, một trong những lợi ích quan trọng nhất mà TPP mang lại chính là các DN sẽ được tham gia chuỗi giá trị hàng hóa nội khối. Nhưng để tham gia vào chuỗi giá trị, các sản phẩm, hàng hóa của DN phải đạt chuẩn quốc tế. Đáng tiếc là hiện nay, sản phẩm của DN trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn quốc tế chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Bà Bùi Thị Dung cho biết thêm, trong thời gian tới, Sở Công thương sẽ tăng cường tuyên truyền, phổ biến tới DN, Hiệp hội về các Hiệp định đã và đang ký kết, nhất là TPP. Đầu tháng 2-2016, Sở Công thương đã phối hợp các sở, ban ngành làm việc với đoàn nghiên cứu Đại học Canberra (Úc) và Hội doanh nghiệp Việt - Úc do Tiến sĩ Scott H. Murray dẫn đầu để thực hiện đề tài nghiên cứu “Tác động của chuỗi giá trị TPP đối với nền kinh tế của BR-VT”. Riêng đối với ngành dệt may, cuối năm 2015 Sở Công thương đã tiến hành khảo sát 32 DN trên địa bàn tỉnh, đánh giá mặt mạnh cũng như điểm yếu của các DN trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, thời gian tới tỉnh sẽ đẩy mạnh các hoạt động nhằm đa dạng hóa mặt hàng dệt may, quan tâm nhiều hơn vấn đề xuất xứ nguyên liệu để bảo đảm đủ tiêu chuẩn hưởng chính sách ưu đãi từ TPP.

Theo Sở Công thương, trước mắt để giải quyết các khó khăn, vướng mắc và nâng cao tính cạnh tranh cho các DN ngành dệt may, Sở Công thương kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo Ban Quản lý Các KCN làm việc với chủ đầu tư KCN hình thành phân khu công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, đồng thời hỗ trợ tiền thuê mặt bằng nhà xưởng cho các DN thuộc lĩnh vực này, có cơ chế hỗ trợ (phù hợp với quy định chung) cho DN để có vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ… nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: LAM GIANG

Theo Bộ Công thương, thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ của các mặt hàng dệt may từ Việt Nam giảm 50% ngay năm đầu tiên TPP có hiệu lực (tương đương 1 tỷ USD) và sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 30% mỗi năm; về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP. Đối với ngành da giày, dự kiến giảm khoảng 60% số thuế nhập khẩu phải nộp cho Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu được đánh giá sẽ tăng khoảng 25% so với tốc độ tăng 15% trước khi tham gia TPP; kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và sản phẩm chế biến có khả năng tăng lên. Đồng thời, tham gia TPP là cơ hội để Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới.

Việt Nam rất có giá trong TPP

"Việt Nam rất có giá trong TPP" - Đây là nhận định được ông Trương Đình Tuyển, cố vấn đàm phán của Chính phủ đưa ra tại hội thảo “Cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam khi Hiệp định TPP có hiệu lực” do Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế TBLA tổ chức chiều 19-2 tại TP.HCM.




Theo ông Trương Đình Tuyển, về kinh tế, trong tương lai Việt Nam là nước đem lại giá trị gia tăng lớn thứ 2 cho Hoa Kỳ, sau Nhật Bản. Về chiến lược, Việt Nam là một nước có trình độ thấp nhất trong các nước tham gia TPP, do đó, Việt Nam sẽ là hình mẫu để Hoa Kỳ thúc đẩy các nước khác trên vành đai Thái Bình Dương tham gia đàm phán khu vực mậu dịch tự do APEC. Ngoài ra, Việt Nam cũng có vị trí địa chính trị rất quan trọng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc.

Trên cơ sở đó, TPP mở ra những cơ hội rất lớn cho Việt Nam về các mặt thu hút đầu tư, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ mới, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh…

Tuy nhiên, song hành với cơ hội cũng là những thách thức không nhỏ. Trước tiên, đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Trong đó cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh là yếu tố quyết định. Tiêu biểu như các sản phẩm nông nghiệp, thách thức lớn nhất vẫn là đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống dịch bệnh. Nếu không đảm bảo, dù thuế nhập khẩu của các nước được đưa về 0%, hàng hóa dồi dào, chủng loại phong phú nhưng chất lượng kém vẫn không xuất khẩu được.

Ông Tuyển nhấn mạnh, cơ hội tự nó không biến thành lợi ích, không tự nó biến thành sức mạnh trên thị trường. Tương tự, thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng ép đến đâu còn tùy thuộc vào đối sách của chủ thể. Chủ thể ở đây là nhà nước và doanh nghiệp.

Vậy làm thế nào để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức? Theo ông Tuyển, việc trước tiên là các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp phải năm vững các cam kết của Việt Nam và 11 đối tác để thực thi cho đúng. Nếu không sẽ bị kiện khi thực hiện không đúng cam kết và cũng không biết để kiện lại khi đối tác vi phạm.

Hầu hết các ý kiến tại hội thảo cũng cho rằng, vấn đề giải quyết tranh chấp là thách thức không nhỏ của Việt Nam khi tham gia TPP. Luật sư, PGS.TS Chu Hồng Thanh, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam nhận định, khi tham gia TPP, chắc chắn sẽ có những tranh chấp nảy sinh. Do đó, việc nghiên cứu sâu các quy định về giải quyết tranh chấp đã được ghi nhận trong Hiệp định TPP là một việc không thể bỏ qua.

Theo các chuyên gia, hệ thống thực thi pháp luật của Việt Nam hiện còn yếu, sự phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chưa tốt. Đội ngũ nhân lực về pháp luật còn yếu về nhiều mặt. Do đó, ông Trương Đình Tuyển cũng cho rằng, các luật sư của Việt Nam cần thành thạo ngoại ngữ và nắm vững các cam kết trong hiệp định, trong đó đặc biệt chú ý các chương về pháp lý thể chế, đầu tư, sở hữu trí tuệ và cả WTO…; nắm vững các công ước quốc tế có liên quan đến xử lý tranh chấp được dẫn chiếu trong hiệp định…

Liên quan đến vấn đề cạnh tranh của doanh nghiệp, ông Tuyển đánh giá, chỉ số cạnh tranh toàn cầu và môi trường kinh doanh của Việt Nam đang ở mức thấp và là vùng trũng trong ASEAN. Theo báo cáo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2015 -2016 do WEF công bố, chỉ số cạnh tranh về thể chế - một yếu tố quyết định của cạnh tranh vĩ mô, Việt Nam xếp thức 92 trong số 140 nước được xếp hạng và đứng thứ 8 trong 10 nước ASEAN (thấp hơn các nước ASEAN-6 và thấp hơn cả Lào).

Cũng theo báo cáo này, các chỉ số mà DN có vai trò quyết định đến khả năng cạnh tranh vi mô, Việt Nam có thứ hạng rất thấp: xếp thứ 99 về sự sẵn sàng về công nghệ, sự tinh thế trong kinh doanh xếp thứ 106, đổi mới sáng tạo xếp thứ 87. Về môi trường kinh doanh, theo đánh giá của WB, năm 2015, Việt Nam xếp thứ 78, tụt 6 hạng so với năm 2014.

Từ thực tế đó, ông Trương Đình Tuyển cho rằng, để cải thiện môi trường kinh doanh, yếu tố quyết định chính là cải cách thể chế để nâng cao năng lực cạnh tranh vĩ mô.

Theo CafeF.vn