Hiển thị các bài đăng có nhãn thách thức của Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn thách thức của Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
TPP - Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương đã được 12 nước thành viên chính thức ký kết vào ngày 4-2-2016 và sẽ có hiệu lực sau 2 năm. Đây là một mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính chất toàn diện, vừa có mức độ cam kết sâu và rộng. 



Đàm phán TPP chính là đàm phán sâu về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và các rào cản thương mại. Kể từ số báo này, ĐTTC giới thiệu loạt bài viết của luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch Hãng luật LP Group, về chủ đề này để bạn đọc, nhà đầu tư và DN có cái nhìn rõ hơn.

Việc tham gia TPP sẽ mở ra cho Việt Nam, các DN trong nước cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt ra một loạt thách thức mới cho DN Việt. Có thể nói, việc nhận thức rõ được cơ hội và thách thức mà TPP mang đến và tận dụng các cơ hội để hạn chế và vượt qua thử thách sẽ thúc đẩy các DN trong nước nhập cuộc một cách mạnh mẽ, sâu rộng và công bằng hơn.

Những cơ hội cho doanh nghiệp Việt trong thời kỳ hội nhập TPP

Theo Vietnam Report, 91% DN đánh giá tích cực về thay đổi liên quan đến chính sách thuế sau khi Việt Nam ký kết TPP. Đây cũng chính một trong muôn vàn cơ hội TPP gián tiếp mang lại cho các DN Việt Nam.

Thứ nhất, tham gia vào TPP sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho xuất khẩu của các DN Việt Nam. Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia, Canada và 3 nước đều cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam hiện tại đã cam kết xóa bỏ đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang có áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5 đến 15 năm sau khi TPP có hiệu lực. Riêng về thuế nhập khẩu, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, trong đó có 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Thứ hai, TPP có độ mở, độ tự do hóa cao nhất so với các hiệp định đang có, từ khắp các lĩnh vực: không chỉ là về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ mà còn cả về thương mại điện tử, lao động. Độ mở này sẽ tạo ra cơ hội để các DN Việt Nam tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự án lớn từ các tập đoàn đa quốc gia.

Thứ ba, TPP giúp tạo ra nhiều việc làm, từ đó thu hút một lượng lớn lao động cho các DN, mang lại những lợi ích về tài chính, cải thiện nguồn nhân lực.

Tóm lại, những lợi thế dành cho DN Việt khi TPP có hiệu lực có thể nhìn thấy được ngay như: thị trường mở rộng ra hơn, thuế quan giảm, có những mặt hàng thuế suất bằng 0%, dễ dàng tìm kiếm những thị trường mới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn thì còn có những thách thức đặt ra.

Và thách thức phải đối mặt

Thứ nhất, tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các đối tác tại thị trường trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc DN trong nước phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay tại sân nhà với DN các nước tham gia TPP. Thuế nhập khẩu và xuất khẩu của đa số mặt hàng trong tương lai sẽ giảm dần về mức 0% và thị trường đầu tư, dịch vụ, thương mại sẽ mở cửa tự do. Do đó, việc các DN Việt phải làm là giải bài toán về cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hệ quả theo sau thách thức này chính là nguy cơ làm mất đi thị phần nội địa. Thậm chí, các DN trong nước cũng phải cạnh tranh với nhau và bị đào thải nếu không đảm bảo nhu cầu của thị trường. 

Thứ hai, việc áp dụng tiêu chuẩn mới trong TPP sẽ tạo ra rào cản kỹ thuật (kể cả lao động và môi trường) và quyền lợi của nhà đầu tư, thí dụ như chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững, tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng về môi trường. Điều này yêu cầu các DN nếu muốn tận dụng cơ hội “vươn tới và tiếp cận” thị trường rộng mở của các nước thì phải am hiểu khi tiếp cận bất cứ thị trường nào, khi đã am hiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn tiên quyết đặt ra mới có thể gia nhập sâu vào thị trường nước bạn.

Thứ ba, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ hết sức chặt chẽ, đề cập đến tất cả các nội dung, điển hình như quyền tác giả, nhãn hiệu, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, thực thi quyền sở hữu trí tuệ… Đây chính là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam khi gia nhập TPP, bởi Việt Nam đang là một trong những quốc gia vi phạm bản quyền hàng đầu thế giới. Việc các DN nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình ngay bây giờ chính là một mấu chốt giúp các DN bảo vệ được chính tài sản của DN khỏi sự xâm phạm của DN khác. Đồng thời còn thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, vì không có nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một DN đang vướng phải những tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, vấn đề bên trong của nền kinh tế. Hầu hết các DN và bản thân người dân Việt Nam chưa hình thành và bắt kịp thói quen về việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn thờ ơ, đôi khi bảo thủ. Vì vậy, khi tham gia TPP sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn về những tiêu chuẩn mới, những yêu cầu mới mà DN Việt chưa sẵn sàng để thay đổi.

Bản thân cơ hội không tự biến thành lợi ích và đôi khi chính thách thức lại làm nên cơ hội. Giữa lý thuyết và thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam sẽ tranh thủ khai thác các lợi thế trong TPP và ứng phó với thách thức, khó khăn như thế nào. Đối với các DN, chỉ khi có giải pháp phù hợp thì lợi thế tiềm năng mới trở thành hiện thực và các khó khăn mới có thể giải quyết được. Vì vậy, để biến thách thức thành lợi thế phụ thuộc vào chiến lược của bản thân DN và Nhà nước. 

Theo Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group 
Đầu tư Tài chính
(Sàn giao dịch TMĐT B2B NOCNDEAL.com) - Để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ.


Sẽ không lâu nữa, người tiêu dùng có thể sẽ tìm thấy nhiều hơn những sản phẩm may mặc thương hiệu Việt Nam tại thị trường Mỹ, New Zealand, Australia, Nhật Bản hay nhiều quốc gia thành viên khác tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mức giá chỉ tương đương giá trong nước.

Tuy nhiên, khi nhiều nhà đầu tư bên ngoài TPP ồ ạt đầu tư vào lĩnh vực này đã làm dấy lên quan ngại rằng: Rất có thể chính họ mới là đối tượng được hưởng lợi từ TPP nếu doanh nghiệp dệt may Việt Nam chậm chân.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào dệt may trong giai đoạn 2014-2015 đã ghi nhận con số 2 tỷ USD mỗi năm. Đây là mức đầu tư bằng cả 10 năm trước đó cộng lại. Đã có những dự án quy mô lớn tới 400-500 triệu USD phần lớn đến từ các nhà đầu tư Hàn Quốc, Hong Kong hay Đài Loan thuộc Trung Quốc. Mức tăng đột biến này hoàn toàn được lý giải khi TPP giành ưu đãi thuế 0% cho dệt may nhưng với điều kiện: đảm bảo từ sợi cho đến thành phẩm phải được sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam.



Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho dệt may Việt Nam khi gia nhập TPP. Thực tế, có tới 90% doanh nghiệp trong nước chỉ hoạt động ở khâu gia công và mua nguyên liệu bán thành phẩm. Những đơn vị đầu tư vào sản xuất nguyên liệu phải nhập 100% bông xơ từ Mỹ hoặc Tây Phi, vì nguyên liệu trong nước không đảm bảo yêu cầu. Khi chưa đủ tiềm lực, nhiều doanh nghiệp trong nước đã nhìn nhận khu vực FDI như một đối tác thay vì một đối thủ như trước đây để có thể tận dụng nền tảng đầu tư hàng triệu USD từ khâu nguyên phụ liệu rồi cùng chia sẻ lợi ích từ TPP.

Về lâu dài, để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ. 2 năm chuẩn bị trước khi TPP có hiệu lực sẽ là thời gian để những dự án này nhanh chóng hoàn thiện, đưa ra nền tảng căn bản nhất cho dệt may trong nước tự tin bước vào TPP.

Dệt may với TPP - Nỗi lo còn dài hay TPP: Sân chơi không dễ cho dệt may... đều là những nhận định đúng. Song, cũng cần phải khẳng định thêm: Quy tắc xuất xứ của TPP cho dù khắt khe nhưng không phải là bài toán không lời giải đối với dệt may Việt Nam nếu khẩn trương chuẩn bị một cách bài bản.

VTV
Ngày 4-2-2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam (các nước này có tổng quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu). Mặc dù được đánh giá sẽ là cơ hội lớn, tuy nhiên cho đến thời điểm này, không ít DN dệt may, giày da rất lo lắng bởi chưa nắm bắt được các vấn đề cụ thể trong TPP.



Ngành giày da chủ yếu vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước không tham gia TPP.

CÒN “MÙ MỜ” VỀ TPP

Đây là câu trả lời của rất nhiều DN trong ngành may mặc, giày da khi hỏi về TPP. Họ cho rằng, mặc dù có nghe nói đến TPP nhiều nhưng lại không nắm bắt được các điều khoản cụ thể. Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc Công ty May Bà Rịa (xã Tam Phước, huyện Long Điền) cho biết: “Chúng tôi có nghe nói nhiều đến TPP. Song thành thực mà nói, chúng tôi chưa hiểu TPP sẽ tác động cụ thể đến DN như thế nào”.

Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh cho biết thêm, Công ty May Bà Rịa đang sản xuất giày leo núi và trượt tuyết, mỗi năm xuất khẩu đi các nước châu Âu hơn 15.000 sản phẩm. Hầu hết các nguyên phụ liệu sản xuất của Công ty May Bà Rịa đều phải nhập khẩu. “Thậm chí, nút nhựa chúng tôi còn phải nhập khẩu từ Trung Quốc”, bà Hạnh nói.

Nguyên liệu nhập khẩu là một trong những thách thức lớn cho ngành dệt may, da giày khi TPP được ký kết. Vì thực hiện quy tắc xuất xứ của TPP, quy định hàng dệt may, da giày của Việt Nam nhập nguyên liệu từ các nước không tham gia hiệp định thì hầu như sẽ không được hưởng các ưu đãi. Hiện Việt Nam chủ yếu nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Riêng tại BR-VT, tỉnh vẫn đang chủ trương hạn chế thu hút đầu tư các lĩnh vực nhuộm, sợi, da thuộc do hệ lụy về ô nhiễm, thâm hụt lao động… Điều này cũng làm cho vấn đề nguyên liệu cung cấp cho các ngành dệt may, da giày trở nên khó khăn hơn.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Phong Thái (có 2 công ty đang hoạt động sản xuất về giày da, bóng golf và bóng da là Công ty TNHH Sản xuất giày Uy Việt và Công ty TNHH Đông Phương Vũng Tàu) cho biết, hiện tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu của Uy Việt chiếm khoảng 60%, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… Trong khi đó, các nước này lại không tham gia TPP nên khó hưởng các ưu đãi từ Hiệp định này.

Ngành dệt may được hưởng nhiều ưu đãi từ TPP.

CẦN THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ MAY MẶC

Theo bà Bùi Thị Dung, Giám đốc Sở Công thương, một trong những lợi ích quan trọng nhất mà TPP mang lại chính là các DN sẽ được tham gia chuỗi giá trị hàng hóa nội khối. Nhưng để tham gia vào chuỗi giá trị, các sản phẩm, hàng hóa của DN phải đạt chuẩn quốc tế. Đáng tiếc là hiện nay, sản phẩm của DN trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn quốc tế chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Bà Bùi Thị Dung cho biết thêm, trong thời gian tới, Sở Công thương sẽ tăng cường tuyên truyền, phổ biến tới DN, Hiệp hội về các Hiệp định đã và đang ký kết, nhất là TPP. Đầu tháng 2-2016, Sở Công thương đã phối hợp các sở, ban ngành làm việc với đoàn nghiên cứu Đại học Canberra (Úc) và Hội doanh nghiệp Việt - Úc do Tiến sĩ Scott H. Murray dẫn đầu để thực hiện đề tài nghiên cứu “Tác động của chuỗi giá trị TPP đối với nền kinh tế của BR-VT”. Riêng đối với ngành dệt may, cuối năm 2015 Sở Công thương đã tiến hành khảo sát 32 DN trên địa bàn tỉnh, đánh giá mặt mạnh cũng như điểm yếu của các DN trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, thời gian tới tỉnh sẽ đẩy mạnh các hoạt động nhằm đa dạng hóa mặt hàng dệt may, quan tâm nhiều hơn vấn đề xuất xứ nguyên liệu để bảo đảm đủ tiêu chuẩn hưởng chính sách ưu đãi từ TPP.

Theo Sở Công thương, trước mắt để giải quyết các khó khăn, vướng mắc và nâng cao tính cạnh tranh cho các DN ngành dệt may, Sở Công thương kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo Ban Quản lý Các KCN làm việc với chủ đầu tư KCN hình thành phân khu công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, đồng thời hỗ trợ tiền thuê mặt bằng nhà xưởng cho các DN thuộc lĩnh vực này, có cơ chế hỗ trợ (phù hợp với quy định chung) cho DN để có vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ… nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: LAM GIANG

Theo Bộ Công thương, thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ của các mặt hàng dệt may từ Việt Nam giảm 50% ngay năm đầu tiên TPP có hiệu lực (tương đương 1 tỷ USD) và sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 30% mỗi năm; về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP. Đối với ngành da giày, dự kiến giảm khoảng 60% số thuế nhập khẩu phải nộp cho Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu được đánh giá sẽ tăng khoảng 25% so với tốc độ tăng 15% trước khi tham gia TPP; kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và sản phẩm chế biến có khả năng tăng lên. Đồng thời, tham gia TPP là cơ hội để Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới.
Trong các đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một thỏa thuận tự do thương mại giữa Mỹ và 11 đối tác thương mại khác giáp với Thái Bình Dương. TPP là giữa Brunei, Australia, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam chiếm đến chiếm 40% tổng sản lượng GDP toàn cầu (số liệu năm 2012). Nếu tính số liệu mới nhất năm 2014 thì 12 nước tham ra TPP tạo ra 45,20% sản lượng GDP của thế giới.

Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới


Trong đó có 3 nước gồm Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới, tức 3 nước này chiếm đến 38,4% sản lượng GDP toàn cầu. Đáng buồn, sản lượng kinh tế của VN năm 2014 chỉ tạo ra 186,20 tỷ đô la Mỹ, tức là chỉ chiếm 0,30% sản lượng GDP của thế giới.

Ta nhắc lại, thực tế hiên nay, chỉ có Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đang lưu hành và áp dụng, hiện là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới nó bao gồm 3 nước giữa Mỹ, Canada và Mexico với sản lượng GDP kinh tế hiện nay là 20.488,38 tỷ USD, tức chiếm 33,05% GDP của nền kinh tế thế giới.

Nếu khu vực thương mại TPP được hình thành có lẽ gần hết năm 2017, thì nó sẽ là lớn hơn so với các Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA).

Tuy nhiên, Mỹ cũng đang đàm phán Thương mại và Đầu tư Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương (TTIP) với Liên minh châu Âu – EU, quy tụ 28 thành viên, gồm: Áo, Bỉ, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania , Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh với 508,2 triệu người vào năm 2014, với sản lượng kinh tế cao nhất địa cầu, nếu tính số liệu mới nhất trong năm 2014 thì sản lượng GDP của 28 nước Liên minh châu Âu đạt được là 18.460,60 tỷ USD, chiếm 29,78% sản lượng GDP của nền kinh tế thế giới, cộng thêm 318,86 triệu dân Mỹ nữa thì sức nặng thật đáng ngại, vì nó có số dân chiếm đến 827 triệu dân.. Nếu cộng sản lượng GDP của EU và Mỹ tạo ra trong năm 2014 lên đến 35.879,60 tỷ USD, tức chiếm đến 57,88% sản lượng GDP toàn cầu.

Nếu cả TPP và TTIP cùng ký thành luật và áp dụng ra thị trường thì rõ ràng “tam hùng” này xếp theo thứ tự: ngôi vị số 1 thuộc về TTIP, số 2 thuộc về TPP, và số 3 thuộc về NAFTA.

Trở về hồ sơ tam hùng của 3 nước trong TPP, gồm Mỹ, Nhật, Canada thì rõ ràng ta sẽ thấy 3 nước này nằm trong nhóm G-7, quy tụ 7 nước công nghiệp hóa hàng đầu của thế giới gồm: Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hoa Kỳ và Canada (Nga bị loại, trước đây là G-8, do Nga chiếm bán đảo Crimea của Ukraine, và kinh tế Nga từ hạng 8 nay rơi xuống vực chỉ xếp thứ hạng 11 các nền kinh tế lớn của thế giới).

Trong 3 nước này là thành viên Câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức, cũng nằm trong Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs được Quỹ Tiền tệ Quốc tế đặt ra năm 1969, thì đồng USD và đồng yên Nhật (JPY) nằm trong rổ tệ mạnh, ngoài đồng Bảng Anh (GBP), đồng EUR. Đối với Trung Quốc sắp tới thì muốn đem “tiền của người dân” (the money of the people), như đồng nhân dân tệ (RMB) vào Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs.

Cũng trong tam cường Mỹ, Nhật, Canada này thì cả ba nước đều có đồng bạc nằm trong rổ tiền để tính ra giá trị của đồng USD qua chỉ số gọi là (USDX, DXY) gồm 6 loại tiền thông dụng là đồng EUR, yên Nhật (JPY), Bảng Anh (GBP), đồng đô la Canada (CAD), Krona Thụy Điển (SEK), Franc Thụy Sĩ (CHF). Đây là lĩnh vực rất chuyên môn về tài chính để tính toán lời lỗ trong kinh doanh, qua việc có thể trao đổi song phương bằng đồng tiền của từng đối tác để hạn chế rủi ro về tỷ giá.

Qua đó nó cho thấy sức nặng quá lớn của tam cường có nền kinh tế và khoa học hiện đại nhất hành tinh, như Mỹ, Nhật chẳng hạn. Việt Nam chỉ là một nước chậm tiến với sản lượng kinh tế quá ít ỏi nên không có bất cứ trọng lượng nào cả.

Đối với Mỹ, hãy thận trọng, tuy Mỹ xuất khẩu chỉ chiếm 13% của GDP, nhưng Mỹ lại là nước xuất khẩu lớn thứ ba của thế giới sau Trung Quốc và khối kinh tế 28 nước EU cộng lại. Cụ thể, trong năm 2014, Mỹ xuất khẩu hàng hóa của Mỹ 1.621 tỷ USD. Trong khi TQ xuất khẩu được 2.343 tỷ USD hàng hóa, khối kinh tế EU xuất khẩu được là 2.173 tỷ USD. Điều đó cho thấy VN đừng hồ hởi sảng mà dễ dàng cạnh tranh được hàng hóa Mỹ. Về nhập khẩu, Mỹ lại là nước nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới.

Hãy cảnh giác, tuy xuất khẩu nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm chỉ 1,5% của GDP, nhưng do sử dụng công nghệ tiên tiến, Mỹ lại là một nước xuất khẩu ròng lương thực rất lớn. Chẳng hạn, trong quý thứ hai của năm 2015, GDP từ nông nghiệp tạo ra lên đến 191,10 tỷ USD. Chỉ cần có một quý thôi đã tạo ra sản lượng GDP lớn hơn sản lượng GDP của Việt Nam tạo ra trong năm 2014 chỉ có 186,20 tỷ USD. Trong quý đầu tiên của năm 2013, GDP từ nông nghiệp của Mỹ lên đến 235,10 USD tỷ USD,…

Đối với Canada, VN hết sức thận trọng về lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá và săn bắn chỉ chiếm 2% sản lượng GDP của Canada, nhưng hãy nhớ rằng Canada lại là quốc gia xuất khẩu ròng về lĩnh vực nông nghiệp lớn nhất thế giới bởi các sản phẩm nông nghiệp. Thật bất hạnh cho VN, nếu không tỉnh táo cải tiến năng suất, giảm thuế, tự chủ về thức ăn cho chăn nuôi, hay các lĩnh vực khác thì chắc chắn lĩnh vực nông nghiệp tại VN sẽ bị xóa sổ bởi TPP chỉ cần hai nước này thôi.

Đối với Nhật thì rõ ràng không cần phân tích gì nhiều thì tất cả người VN đều biết sản phẩm của Nhật. Tuy nhiên, Nhật là nước nhập khẩu lương thực rất lớn, tất nhiên phải là những sản phẩm đáp ứng theo tiêu chuẩn khắt khe của Nhật, những trò gian dối dùng thuốc tăng trưởng hay chất kích thích sẽ không bao giờ qua mắt được Nhật.

Hãy thận trọng, Nhật là nước xuất khẩu rất lớn thứ 3 trên thế giới xếp sau Trung Quốc và Đức, với kim ngạch xuất khẩu chiếm gần một phần ba sản lượng GDP kinh tế của Nhật trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, thật may mắn, lĩnh vực xuất cảng của Nhật ít trùng khớp với các mặt hàng xuất cảng của VN.

Nói riêng về VN, trong 12 nước tham gia TPP thì VN có sản lượng GDP thấp nhất chỉ xếp trên Vương quốc Brunei (tuy nhiên Brunei là nước nhỏ, nhưng rất giàu có).

Nói chung, khi phát triển kinh tế bằng hội nhập quốc tế, thì VN cũng phải tính toán bền vững về dài, bởi lẽ lợi thế nhân công rẻ không bao giờ là mãi mãi nếu VN muốn đòi hỏi trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 – 2040. Tuy trước mắt VN cần thu hút đầu tư nước ngoài bằng đồng lương thấp để tích lũy tư bản tài chính để nhằm nâng đồng lương cho công nhân cao hơn sau này. Thực tế, khi VN gia nhập TPP thì về dài hạn phải đổi mới bằng năng suất lao động cao hơn, vì lương thấp sẽ hết là hấp dẫn giới đầu tư khi VN đã là tư cách một nước công nghiệp (vì VN muốn vậy). Điều đó nôm na là VN không phải là nước làm gia công cho thiên hạ nữa nếu muốn “hóa Rồng”.

Muốn thế thì phải nghĩ đến việc cải tiến cao hơn để làm ra mặt hàng có giá trị kinh tế hơn, việc này đòi hỏi nhân công phải có tay nghề và kỹ thuật cao hơn, điều đó phải có yếu tố nền giáo dục có phẩm chất.

Thực tế, để tăng sản phẩm suất siêu có phẩm chất thì VN cần phải nâng cao tối đa tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, tất nhiên, đội ngũ nhân công phải được đào tạo tốt, bởi lẽ VN có đủ điều kiện làm việc này vì có nhiều tài nguyên khoáng sản, con người thông minh, nhưng đáng tiếc là những sản phẩm tạo ra đều là mặt hàng thô không có lời nên kém hấp dẫn các đại công ty Mỹ, hay EU và Nhật để họ nhập hàng vì nhiều lý do, như ít sáng tạo vì hệ thống đào tạo đại học và sau tại VN là quá lạc hậu.

FB: Phương Thơ, Morgan Stanley (NYSE: MS)
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh và “thách thức lớn nhất” của TPP
Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Việt Nam, ông Trần Quốc Khánh.

“Người giỏi không đi vào khu vực quản lý Nhà nước nữa mới là điều đáng ngại”, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Việt Nam, ông Trần Quốc Khánh nói khi đề cập đến thách thức lớn nhất của TPP.
Với người nghe là các doanh nhân đang tham gia chương trình đào tạo cao cấp về quản trị doanh nghiệp do VCCI tổ chức tại Đà Nẵng, ông Khánh nhấn mạnh, có thể các doanh nhân rất lo lắng về sức ép cạnh tranh, nhưng cạnh tranh là câu chuyện muôn thuở của kinh tế thị trường, rồi sẽ vượt qua được. 

Thế nhưng, thách thức lớn nhất lại nằm ở yếu tố con người - nguồn nhân lực.

Có nhân lực chất lượng cao, có tất cả
Cơ hội mở ra mà không nắm bắt được thì chỉ còn thách thức, mà muốn nắm bắt được cơ hội thì yếu tố con người – nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng. 

"Có được nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ có tất cả", ông Khánh nói.

Theo ông Khánh, vấn đề chất lượng nhân lực đã xuất hiện ở cả hai khu vực Nhà nước và doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp, lâu nay vẫn nói Việt Nam dồi dào lao động nhưng trên thực tế một số khu vực đã bắt đầu thiếu lao động có tay nghề, thí dụ như ngành da giày hay chế biến gỗ xuất khẩu. Cơ hội mở ra mà không có nguồn nhân lực thì cũng không thể tăng xuất khẩu được.

Xuất phát từ đây, cần suy nghĩ thấu đáo hơn về phát triển các trường dạy nghề, nhất là ở khu vực nông thôn. Trong cộng đồng, cũng cần rũ bỏ tư duy khoa bảng. 

Dẫn nhận định từ báo chí rằng "hiếm có quốc gia nào mà nhân sự trình độ đại học làm công việc bán hàng nhiều như Việt Nam" , ông Khánh cho là quá lãng phí, bởi thu nhập của một người bán hàng chỉ khoảng 3-4 triệu/tháng, trong khi công nhân lành nghề có thể lên tới 6-7 triệu/tháng.

Nhân lực cho khu vực doanh nghiệp đã quan trọng, nhưng quan trọng hơn cả, theo ông Khánh, là nhân lực cho khu vực quản lý Nhà nước. Bởi vì, để nắm bắt được các cơ hội từ TPP, cần phải có các chuyên gia giỏi, đủ sức thiết kế và vận hành không chỉ khung khổ pháp lý mới mà còn cả các thiết chế mới.

  1. Đặc biệt, cần có khả năng tương tác tốt với khu vực doanh nghiệp để thực hiện tốt chức năng của một Nhà nước kiến tạo. Điều này không hề dễ dàng, bởi theo đánh giá của vị Trưởng đoàn đàm phán TPP, có thể do yếu tố thu nhập, nên thời gian gần đây, ngày càng ít người giỏi đi vào khu vực quản lý Nhà nước. 

“Vẫn có một số bạn giỏi và có tâm, nhưng cũng nhiều bạn chỉ đáp ứng được yêu cầu tối thiểu. Trong tương lai, khi đến lượt các bạn đó nắm giữ vị trí hoạch định chính sách thì quả thực là rất đáng ngại. Đó mới là thách thức lớn nhất”, ông nói.

Chắc chắn có cơ hội mới
Ông Khánh cũng dành thời gian trình bày khái quát về các cơ hội và thách thức do TPP đem lại.

Về kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia độc lập, TPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2030, còn xuất khẩu có thể tăng 68 tỷ USD vào năm 2025 so với trường hợp không có TPP.

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, các nghiên cứu này đều dựa trên giả định rằng "các yếu tố khác đều thuận lợi". Nếu các giả định này không đúng, thí dụ như kinh tế thế giới đột ngột gặp khó khăn, thì con số ước tính sẽ khác đi nhiều.

“Chúng ta có thể nghe để biết chứ không nên quá tin vào các đánh giá đó bởi trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu dạng này nhưng không có nghiên cứu nào là tuyệt đối chính xác cả bởi dựa trên quá nhiều giả định”, ông chia sẻ.

Mặc dù vậy, Thứ trưởng Khánh tin rằng cơ hội tăng trưởng xuất khẩu là rất lớn, đặc biệt là với dệt may và giày dép. Bên cạnh đó là các cơ hội xuất hiện từ chuỗi cung ứng mới, được hình thành sau khi TPP có hiệu lực. 

Do TPP là khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm tới 40% tổng GDP thế giới, các tập đoàn sẽ có động lực di chuyển chuỗi sản xuất của họ về khu vực TPP. Khi đó, tất cả các doanh nghiệp, trong đó có cả doanh nghiệp nhỏ và vừa, đều sẽ được hưởng lợi.

Với riêng ngành ôtô, nhờ quy tắc xuất xứ chặt chẽ của TPP, Thứ trưởng Khánh cho rằng "chưa biết chừng ngành này lại được hưởng lợi". 

Theo ông Khánh, dù đã khuyến khích một thời gian dài, Việt Nam vẫn chưa có được ngành sản xuất ôtô đúng nghĩa. Tuy nhiên, khi TPP xuất hiện và đòi hỏi ôtô phải đáp ứng tỷ lệ xuất xứ cao mới được hưởng ưu đãi thì đây có thể sẽ là cơ hội cho Việt Nam bởi có thể chuyển sang sản xuất phụ tùng để cung cấp cho các hãng ô tô lớn, thí dụ như của Nhật Bản.

Vẫn liên quan đến cơ hội, Trưởng đoàn đàm phán TPP cho rằng, TPP sẽ là cơ hội cho Việt Nam tiếp tục cải cách thể chế và hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp

Nguồn: http://vneconomy.vn/