Hiển thị các bài đăng có nhãn kiến thức về TPP. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kiến thức về TPP. Hiển thị tất cả bài đăng
(Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEAL.com) - Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế (chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản (tương đương 10,5 tỷ USD) ngay khi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực, và vào năm thứ 11 xóa bỏ đối với khoảng 95,6% số dòng thuế.




Đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của Việt Nam được hưởng thuế suất 0% ngay sau TPP có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ....

Ngày 04/02/2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã chính thức được ký kết giữa 12 nước, gồm Úc, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ vàViệt Nam, có quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu. 

Theo Bộ Tài chính, các nước tham gia TPP xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng hóa của các thành viên. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014)

Đối với nông sản từ Việt Nam, Nhật bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc cắt giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số mặt hàng nhạy cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng.

Nhiều mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam – Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số loài cá tuyết, surimi, tôm, cua ghẹ... Toàn bộ các dòng hàng thủy sản không cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam – Nhật Bản sẽ được xóa bỏ trong TPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực.

Đối với mặt hàng rau quả, Nhật Bản cam kết mức thuế 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Mặt hàng mật ong sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 8.

Trong khi đó, đối với mặt hàng giày dép thì 79,5 % kim ngạch các xóa bỏ thuế vào năm thứ 10 và các mặt hàng còn lại (giày da) sẽ xóa bỏ thuế suất vào năm thứ 16. Mặt hàng vali, túi xách bằng da sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 16.

Bên cạnh đó, đối với mặt hàng dệt may thì 98,8% số dòng thuế sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản. Những mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế vào năm thứ 10.

Nguồn: doanhnghiepvn
Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL - Với vóc dáng nhỏ nhắn, phong thái giản dị, chân thật nhưng sâu sắc và hóm hỉnh, câu chuyện của anh về một Hiệp định TPP “rất to tát” lại được chuyển tải một cách thật nhẹ nhàng, đơn giản. Anh là Hà Duy Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính - Trưởng nhóm Hàng hóa của Đoàn đàm phán TPP Việt Nam.




Không phải ngày một ngày hai, TPP được "bàn" đến trong suốt 7-8 năm. Vậy những ngày đầu, chúng ta đã "tham gia" như thế nào. Anh còn nhớ không?

Khoảng năm 2008-2009, Hoa Kỳ và một số nước có đến Việt Nam để giới thiệu về TPP thì tôi đã được tham gia nghe và trao đổi về Hiệp định này. Khi đó, họ giới thiệu cho chúng ta biết về TPP với những khái niệm còn rất chung, rất nhiều nội dung chúng ta cũng chưa định hình và hiểu rõ được. Những nội dung cụ thể đầy đủ hơn về sau này đã được xây dựng dần qua quá trình đàm phán.

Tôi còn nhớ, trong 3 phiên đàm phán đầu tiên, Việt Nam chỉ tham gia với vai trò là quan sát viên đặc biệt, hay còn gọi là thành viên liên kết, được phép dự đàm phán, được tham gia ý kiến nhưng không được biểu quyết. Nhưng giai đoạn đó cơ bản là trao đổi quan điểm nên vai trò của Việt Nam cơ bản cũng như 7 nước thành viên khác khi đó là Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei, Úc và Peru.

Tham gia đàm phán TPP có nhiều nhóm, mỗi nhóm phụ trách một lĩnh vực cụ thể. Nhóm hàng hoá gồm đại diện Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và tôi, với vai trò là đại diện Bộ Tài chính, được giao nhiệm vụ làm trưởng nhóm, điều phối trong nhóm.

Trong nhóm thì đại diện của mỗi cơ quan có nhiệm vụ rất rõ ràng, như Bộ Công Thương phải đảm bảo đối tác đàm phán phải mở cửa cao nhất cho ta, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì tập trung vào lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản, còn Bộ Tài chính thì đảm bảo mở cửa thị trường cho hàng hoá của các đối tác ở mức phù hợp nhất. Vì vậy, phải điều phối để các mục tiêu trên đều đạt kết quả cao nhất. Nói cho dễ hiểu là "đi mặc cả", xem "vốn" của mình ít hay nhiều để "mặc cả" cho phù hợp.

Vậy cụ thể đàm phán được tiến hành thế nào? Nghe nói công việc "đàm phán" rất vất vả, nặng nhọc, không chỉ "đấu" trí mà thời gian cũng rất áp lực. Với TPP, chúng ta có thế không?

Khi tham gia đàm phán, có những phiên làm chung với các nước, có phiên làm song phương với từng nước. Trong một ngày, một đoàn đàm phán có thể có một hoặc nhiều hoạt động như thế diễn ra liên tục. Cuối ngày, cả đoàn họp lại với nhau để báo cáo phần công việc của mình và xin ý kiến Trưởng đoàn để có hướng xử lý trong những ngày đàm phán tiếp theo.

Trên cơ sở những nội dung đã chuẩn bị và xin chỉ đạo về chủ trương từ nhà (ở Việt Nam-PV), chúng tôi chuẩn bị nhiều kịch bản, phương án đàm phán trong khuôn khổ đấy. Cách thức phối hợp phải thật nhịp nhàng sao cho cả đoàn như một cỗ máy đồng điệu, vận hành trơn tru, cùng nhau hoàn thành tốt dưới sự chỉ đạo từ nhà và điều phối của đồng chí Trưởng đoàn.

Tính chính thức thì có 19 vòng đàm phán, ngoài ra còn có những vòng không chính thức và rất nhiều các phiên đàm phán song phương với từng nước đối tác trong TPP. Tổng cộng khoảng 40 vòng.

Trong số đó thì có những phiên đàm phán chung kéo dài khoảng 1-2 tuần với sự tham gia thảo luận của cả 12 nước thành viên về những vấn đề chung. Ngoài ra, còn có những phiên đàm phán riêng với từng nước thành viên để xử lý các mối quan tâm chung của hai bên. Thậm chí, chỉ thảo luận trong các phiên đàm phán thôi cũng chưa đủ, hai nước còn gặp mặt thêm (đàm phán song phương) để giải quyết những khúc mắc, tồn đọng. Quá trình đó diễn ra liên tục trong suốt hơn 5 năm.

Nói chung việc đàm phán khá căng thẳng, nhất là khi các nước tổ chức đàm phán tại Nam Mỹ như ở Peru hay Chile vì sau một chặng đường dài có khi mất tới gần 48 tiếng từ lúc rời Việt Nam mới đến được Peru hay Chile thì ngay sau đó phải bắt tay vào đàm phán. Thậm chí trên đường đi cũng đã phải thu xếp lịch đàm phán song phương cũng như chuẩn bị các nội dung làm việc.


Tham gia đàm phán TPP có khá nhiều nước lớn, Việt Nam có sợ “bị bắt nạt” không?

Cũng phải xác định mình cần họ, họ cũng cần mình, như vậy thì 2 bên là đối tác của nhau. Đàm phán thành công thì lập luận phải tốt, họ lập luận tốt thì ta nghe, ta lập luận tốt thì họ cũng phải nghe. Tâm niệm như vậy để ta không phải "sợ" họ và nói chung đôi lúc cũng phải "rắn" và "liều" (cười).

Đối tác nào theo anh là khó đạt được thỏa thuận nhất?

Những nước có lợi ích là khó đàm phán nhất. Như với Hoa Kỳ là đối tác quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất của Việt Nam trong TPP thì những mặt hàng của chúng ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ là những mặt hàng được bảo hộ ở mức cao nên quá trình đàm phán khá khó khăn, hay họ đòi ta mở cửa thị trường rất nhanh cho những mặt hàng mà họ có thế mạnh. Hoặc như với Mexico thì họ cũng rất lo ngại các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, da giày…

Nếu định lượng, anh nghĩ, chúng ta đã đạt được bao nhiêu % mục tiêu đặt ra?

Một ngày cuối năm bận rộn, tại căn phòng nhỏ với những chồng tài liệu khổng lồ, chúng tôi có cơ hội được trò chuyện với một chuyên gia đàm phán hội nhập của Bộ Tài chính.

Mục tiêu lớn nhất của chúng tôi là làm sao mang về lợi ích nhiều nhất cho quốc gia. Định lượng thì rất vô cùng, con số là bao nhiêu còn tùy vào kỳ vọng của từng người đánh giá.

Riêng tôi, luôn xác định rằng đã đi đàm phán thì không bao giờ chỉ được mà không mất gì. Chúng ta buộc phải mở cửa thị trường ở trong khuôn khổ có thể chấp nhận được và khi các nước mở cửa thị trường cho Việt Nam thì chắc chắn phải trên mức mình chấp nhận được. Nếu họ đòi hỏi quá cao hoặc mở cửa dưới mức mình yêu cầu thì chưa thể kết thúc đàm phán.

TPP được xem như một sự kiện lớn đối với Việt Nam, thậm chí có thể còn quan trọng hơn cả thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Rất nhiều kỳ vọng, nhiều phân tích, bình luận, nhận định. Liệu chúng ta có đang "thổi phồng" quá những lợi ích, tác động mà TPP mang lại?

Sau khi chúng ta gia nhập WTO thì ai cũng nói đến WTO. Bây giờ là TPP thì công chúng và báo chí cũng "xôn xao" như vậy. Có thể thấy sự “xôn xao” ấy xuất phát từ quy mô của Hiệp định. Như WTO - đây là một tổ chức lớn, tạo ra những quy tắc thương mại toàn cầu, trong khi Việt Nam khi đó đang là nền kinh tế chuyển đổi. Hòa nhập vào WTO, Việt Nam phải sửa đổi cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với các cam kết. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng.

TPP cũng tương tự. Với hàng nghìn trang văn kiện, hàm lượng nội dung đồ sộ hơn trong nhiều lĩnh vực. Khác với các Hiệp định thương mại tự do đã ký, TPP có phạm vi rộng hơn, mức độ cam kết sâu hơn, từ đó tác động lớn hơn và buộc ta sẽ phải có nhiều điều chỉnh cơ chế chính sách. Hiện nay, dù chưa thực hiện TPP, chúng ta vẫn đang tái cơ cấu nền kinh tế để phù hợp hơn với xu hướng hội nhập. Thêm TPP, nền kinh tế nước ta sẽ có thêm cú hích, thêm động lực, thêm sức ép để quyết tâm tái cơ cấu mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên cũng phải nói điều đó có xảy ra không còn tuỳ thuộc TPP khi nào được ký kết và phê chuẩn có hiệu lực; và chúng ta cũng cần bình tĩnh, tỉnh táo để đánh giá, nhận định đầy đủ cơ hội cũng như thách thức của TPP.

Nhìn chung, mỗi nền kinh tế, dù có quy mô khác nhau, nhưng đều tồn tại các doanh nghiệp khác nhau từ lớn, vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Mỗi loại doanh nghiệp đều có phân khúc thị trường riêng và lợi thế riêng. Vấn đề là doanh nghiệp phải khai thác được lợi thế đó. Trong một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải tự thân là chính. Kết quả đàm phán chỉ đem lại cơ hội, còn biến cơ hội đó thành thực tế thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp.

Xin cảm ơn những chia sẻ của anh!

CafeF.vn
Những ngày cuối cùng của năm 2015, dù bận nhiều công việc nhưng những người tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) vẫn dành thời gian để tham gia các cuộc phổ biến nội dung của TPP cho DN và cả các cơ quan truyền thông từ trong Nam cho đến ngoài Bắc.

Các nhà lãnh đạo của các nước tham gia đàm phán TPP nhóm họp tại Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 10-10-2014. (Ảnh: AFP)

Thông thương bằng những con kênh lớn

Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), Phó Trưởng đoàn đàm phán TPP chia sẻ, trước đây, Việt Nam thường tham gia hội nhập với tư cách “người đến sau”, chọn sân chơi mang tính vừa phải trong khu vực, nòng cốt là ASEAN, tính chủ động trong việc lựa chọn đối tác không có. Tuy nhiên, đến năm 2015 quá trình hội nhập đã có bước thay đổi, phần lớn những Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam tham gia đều mang tính chủ động cao trong việc lựa chọn đối tác, sao cho có lợi nhất cho mình. “Khi gia nhập WTO, chúng ta gọi là đi ra biển lớn, có một quy định chung áp dụng cho các nước. Nhưng thời gian gần đây, động lực thúc đẩy thương mại thế giới trong WTO bắt đầu chững lại. Trong nhiều năm qua, hầu như WTO không đưa ra kết quả nào về thúc đẩy thương mại. Vì vậy, các nước có sự suy tính đổi cách chơi mới là hình thành các FTA với quy mô lớn. Thay vì cách chơi ra biển lớn, chúng ta lại đào những con kênh thông thương thị trường với nhau - những con kênh lớn”, ông Thái nói.

“Con kênh” được nhắc đến nhiều nhất, quan tâm nhiều nhất, tác động lớn nhất là TPP bởi đây là Hiệp định có quy mô thương mại, kinh tế chiếm gần 40% GDP toàn cầu, đồng thời là Hiệp định mở tạo tiêu chuẩn mới cho các nước tham gia. TPP là Hiệp định tương đối phức tạp, nội dung cam kết sâu gồm 30 chương khác nhau với nhiều nội dung cụ thể.

Ông Thái nhìn nhận, khi nói đến một FTA, phần đầu tiên người ta nghĩ đến là các nước mở cửa thị trường cho nhau thế nào. Với TPP, nội dung Việt Nam quan tâm nhất là phần mở cửa thị trường hàng hóa. “Đối với các lĩnh vực mở cửa thị trường khác như dịch vụ, đầu tư, mua sắm công…, Việt Nam cũng có những lợi ích nhưng ở mức hạn chế hơn rất nhiều, lợi ích của Việt Nam chủ yếu nằm ở việc các nước mở cửa cho thị trường hàng hóa như thế nào”, ông Thái khẳng định.

Điều gì gây tranh cãi lớn nhất?

Rất nhiều người tò mò muốn biết, nội dung gây tranh cãi lớn nhất trong quá trình đàm phán TPP là gì bởi Hiệp định này có khá nhiều nội dung mới đối với Việt Nam như mua sắm Chính phủ, DN Nhà nước, hay lao động...? Ông Thái cho biết, lao động cũng là lĩnh vực đàm phán tương đối khó khăn. “Hiện Trung ương đang họp và đây là lần đầu tiên Trung ương xem xét một Hiệp định trước khi ký kết và phê chuẩn”. Trong khi các nước TPP không có vấn đề gì bởi TPP chỉ đặt ra tiêu chuẩn đối với Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), thì riêng Việt Nam có nội dung công đoàn tương đối khác với các nước. Việt Nam chỉ có một tổ chức là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam mà không có nhiều tổ chức lao động như các nước. Cuối cùng, đoàn đàm phán đã đạt được thỏa thuận duy trì cơ chế chỉ có một Tổng Liên đoàn Lao động, tổ chức chính trị - xã hội duy nhất trong nội dung này. Theo đó, Việt Nam cho phép thành lập tổ chức đại diện cho người lao động tại cơ sở (tức DN) để người lao động đạt được đàm phán tốt nhất với giới chủ. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề gây tranh cãi lớn nhất.

Theo “tiết lộ” của những người đi đàm phán, nội dung gây tranh cãi lớn nhất của các nước và cũng “thời điểm nút thắt” của TPP là đàm phán về quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có vấn đề bảo hộ đối với dược phẩm bởi đây là mặt hàng cực kỳ nhạy cảm với tất cả các nước. Chính sách tác động đến mặt hàng này có thể tác động đến giá thuốc, từ đó tác động đến quyền tiếp cận thuốc của người nghèo. Vì vậy, đã có sự tranh cãi cao giữa các nước phát triển muốn đặt tiêu chuẩn cao, đặc biệt là trong việc bảo hộ dữ liệu thử nghiệm của dược phẩm đó. “Cuối cùng, chúng ta đạt cam kết hợp lý là duy trì chế độ áp dụng trước đây đã bảo hộ trong FTA song phương với Mỹ. Nhưng tới đây khi kinh tế phát triển, 15 năm nữa chúng ta mới phải thực thi tiêu chuẩn cao hơn”, ông Thái khẳng định.

Đặc biệt, ở gần vòng đàm phán cuối cùng, riêng chương sở hữu trí tuệ có trên 100 vấn đề chỉ có Việt Nam “vướng”, trong đó có nhiều vấn đề liên quan cách làm của chúng ta tương đối khác. Ví dụ, mảng lớn nhất là xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ như thế nào. Trước đây chúng ta hay dùng công cụ hành chính, rất ít khi vi phạm sở hữu trí tuệ đưa ra tòa, thậm chí có những trường hợp thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch vào kiểm tra phần mềm DN có vi phạm bản quyền hay không và phạt tại chỗ. Cách làm của chúng ta tiện, nhanh song không có quy trình để các bên tranh tụng như tại tòa án. Do vậy, với TPP chúng ta sẽ phải thay đổi để phù hợp với cách làm chung.

Dệt may “ẵm” thêm 250 triệu USD

Trong lĩnh vực hàng hóa, dệt may là mối quan tâm rất lớn của Việt Nam, thậm chí nhiều người còn đánh giá đây là lợi ích cốt lõi của Việt Nam khi tham gia TPP. Chẳng thế mà trong TPP có riêng một chương về dệt may. Tuy nhiên, XK dệt may của Việt Nam hiện đang bị các nước đánh thuế rất cao. Ví dụ như thị trường Mỹ, XK dệt may sang Mỹ mỗi năm phải đóng tới 1,4 tỷ USD tiền thuế NK, chưa kể mặt hàng giày dép phải đóng hơn 300 triệu USD. Như vậy, chỉ riêng 2 mặt hàng này tiền thuế mà DN Việt Nam phải đóng cho Mỹ đã lớn hơn cả tiền thuế tất cả các nước tham gia TPP phải đóng khi XK vào Mỹ, dù họ còn XK nhiều hơn Việt Nam. Chính vì vậy, trong quá trình đàm phán, đoàn đàm phán quyết tâm bãi bỏ rào cản này để Mỹ đưa thuế dệt may về 0% thay vì mức thuế trung bình trên 17% như hiện nay. Song đổi lại, Mỹ cũng có quan ngại, e sợ hàng dệt may lấy nguồn từ nguồn khác vào Việt Nam, nhất là những nước láng giềng nên họ muốn có quy tắc xuất xứ chặt. Theo đó, Việt Nam phải làm được hàng dệt may từ sợi trở đi nếu muốn được hưởng ưu đãi thuế. “Tất nhiên, cũng có một số linh hoạt chúng ta đàm phán được với một số sản phẩm mà trong TPP có nguồn cung thiếu hụt có thể NK”, ông Thái cho hay.

Có một thông tin đáng chú ý của ngành dệt may có lẽ không phải ai cũng được biết nếu không có sự chia sẻ của ông Lương Hoàng Thái: “Giai đoạn kết thúc đàm phán cuối cùng TPP, anh em trong đoàn đàm phán tưởng là kết quả rất tốt rồi, tiết kiệm 850 triệu USD thuế dệt may trên tổng số 1,4 tỷ USD tiền thuế Mỹ thu hàng năm. Tuy nhiên, khi mang kết quả về, Thủ tướng bảo không được, rồi “gọi” Đại sứ Mỹ lên và “kéo” Tổng thống Obama ở Hội nghị ASEAN để... đấu tranh. Cuối cùng, chúng ta thỏa thuận thêm 250 triệu USD, tức là tiết kiệm cho dệt may 1,1 tỷ USD và kết thúc đàm phán thành công”.

Có thể thấy, TPP kết thúc đàm phán là nỗ lực của tất cả các bên tham gia, đặc biệt là vòng đàm phán cuối cùng tại Hawaii (Mỹ) với những thỏa thuận nói trên đạt được vào phút chót. Cảm xúc của ông Thái khi nói về TPP có lẽ cũng là cảm xúc của nhiều người đã từng tham gia đàm phán: “Với những người làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, trong năm 2015 có rất nhiều kỷ niệm, trong đó có những kết quả ghi dấu ấn chỉ đạo trực tiếp từ Chính phủ. Đây là những kỷ niệm chưa bao giờ trong đời được chứng kiến!”.

Ngày 26/1/2015, các nước thành viên TPP đã công bố bản toàn văn chính thức của Hiệp định.
Ngày 4/2/2016, Hiệp định TPP đã được chính thức ký kết tại New Zealand.
Dưới đây là nội dung chi tiết Toàn văn Hiệp định TPP (bản chính thức) bằng tiếng Anh và bằng tiếng Việt cùng với các Bản Tóm tắt nội dung các Chương Hiệp định của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) và Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) bằng tiếng Anh và Bộ Công Thương Việt Nam (MOIT) bằng tiếng Việt.
Nội dung Hiệp định:
Lời mở đầu (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Chương 1: Các điều khoản và định nghĩa chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | DFAT 
Chương 2: Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT 
Phụ lục 2-D: Lộ trình cắt giảm thuế
Chương 3: Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
  • Phụ lục 3-D: Quy tức xuất xứ cụ thể mặt hàng (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
  • Phụ lục 3-D: Tiểu phụ lục 1 - Các điều khoản liên quan đến Quy tắc xuất xứ cụ thể cho phương tiện và bộ phận của phương tiện (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Chương 4: Dệt may (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 5: Hải quan (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 6: Phòng vệ Thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR MOIT  DFAT
Chương 7: Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 8: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt)  
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 9: Đầu tư (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 10: Thương mại dịch vụ xuyên biên giới (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 11: Dịch vụ Tài chính (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 12: Nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Phụ lục 12-A: Nhập cảnh tạm thời
Chương 13: Viễn thông  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 14: Thương mại điện tử  (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 15: Mua sắm Chính phủ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
​​Phụ lục 15-A: Mua sắm Chính phủ
Chương 16: Cạnh tranh  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT |DFAT
Chương 17: Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và độc quyền chỉ định  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT DFAT
Chương 18: Sở hữu trí tuệ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 19: Lao động (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
Chương 20: Môi trường (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 21: Hợp tác và nâng cao năng lực  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 22: Nâng cao sức cạnh tranh và Thuận lợi hóa hoạt động kinh doanh (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 23: Phát triển (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 24: Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 25: Hội tụ phương pháp hoạch định chính sách thương mại (Tiếng Anh (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 26: Minh bạch hóa và chống tham nhũng (Tiếng Việt) (Tiếng Anh
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 27: Các điều khoản hành chính và thể chế (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 28: Giải quyết tranh chấp (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 29: Các ngoại lệ và các điều khoản chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 30: Các điều khoản cuối cùng (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT

PHỤ LỤC
Phụ lục I: Non-Conforming Measures:
Phụ lục II: Non-Conforming Measures:
Phụ lục III: Dịch vụ tài chính
Phụ lục IV: Doanh nghiệp nhà nước

Ngoài các cam kết chính trong văn bản Hiệp định, các bên còn xây dựng các Thư song phương nhằm làm rõ hơn một số nội dung cam kết hoặc thổng nhất cách hiểu về một số nội dung cam kết trong Hiệp định. Dưới đây là các Thư song phương của Việt Nam với một số đối tác TPP:
Thư song phương giữa Việt Nam và một số đối tác TPP: 
Australia
Brunei Darussalam
Canada
Chile
Japan
Malaysia
Mexico
New Zealand
Peru
Singapore
United States
Nguồn: www.trungtamwto.vn