Hiển thị các bài đăng có nhãn TPP agreement. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn TPP agreement. Hiển thị tất cả bài đăng
TPP - Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương đã được 12 nước thành viên chính thức ký kết vào ngày 4-2-2016 và sẽ có hiệu lực sau 2 năm. Đây là một mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính chất toàn diện, vừa có mức độ cam kết sâu và rộng. 



Đàm phán TPP chính là đàm phán sâu về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và các rào cản thương mại. Kể từ số báo này, ĐTTC giới thiệu loạt bài viết của luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch Hãng luật LP Group, về chủ đề này để bạn đọc, nhà đầu tư và DN có cái nhìn rõ hơn.

Việc tham gia TPP sẽ mở ra cho Việt Nam, các DN trong nước cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt ra một loạt thách thức mới cho DN Việt. Có thể nói, việc nhận thức rõ được cơ hội và thách thức mà TPP mang đến và tận dụng các cơ hội để hạn chế và vượt qua thử thách sẽ thúc đẩy các DN trong nước nhập cuộc một cách mạnh mẽ, sâu rộng và công bằng hơn.

Những cơ hội cho doanh nghiệp Việt trong thời kỳ hội nhập TPP

Theo Vietnam Report, 91% DN đánh giá tích cực về thay đổi liên quan đến chính sách thuế sau khi Việt Nam ký kết TPP. Đây cũng chính một trong muôn vàn cơ hội TPP gián tiếp mang lại cho các DN Việt Nam.

Thứ nhất, tham gia vào TPP sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho xuất khẩu của các DN Việt Nam. Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia, Canada và 3 nước đều cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam hiện tại đã cam kết xóa bỏ đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang có áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5 đến 15 năm sau khi TPP có hiệu lực. Riêng về thuế nhập khẩu, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, trong đó có 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Thứ hai, TPP có độ mở, độ tự do hóa cao nhất so với các hiệp định đang có, từ khắp các lĩnh vực: không chỉ là về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ mà còn cả về thương mại điện tử, lao động. Độ mở này sẽ tạo ra cơ hội để các DN Việt Nam tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự án lớn từ các tập đoàn đa quốc gia.

Thứ ba, TPP giúp tạo ra nhiều việc làm, từ đó thu hút một lượng lớn lao động cho các DN, mang lại những lợi ích về tài chính, cải thiện nguồn nhân lực.

Tóm lại, những lợi thế dành cho DN Việt khi TPP có hiệu lực có thể nhìn thấy được ngay như: thị trường mở rộng ra hơn, thuế quan giảm, có những mặt hàng thuế suất bằng 0%, dễ dàng tìm kiếm những thị trường mới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn thì còn có những thách thức đặt ra.

Và thách thức phải đối mặt

Thứ nhất, tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các đối tác tại thị trường trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc DN trong nước phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay tại sân nhà với DN các nước tham gia TPP. Thuế nhập khẩu và xuất khẩu của đa số mặt hàng trong tương lai sẽ giảm dần về mức 0% và thị trường đầu tư, dịch vụ, thương mại sẽ mở cửa tự do. Do đó, việc các DN Việt phải làm là giải bài toán về cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hệ quả theo sau thách thức này chính là nguy cơ làm mất đi thị phần nội địa. Thậm chí, các DN trong nước cũng phải cạnh tranh với nhau và bị đào thải nếu không đảm bảo nhu cầu của thị trường. 

Thứ hai, việc áp dụng tiêu chuẩn mới trong TPP sẽ tạo ra rào cản kỹ thuật (kể cả lao động và môi trường) và quyền lợi của nhà đầu tư, thí dụ như chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững, tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng về môi trường. Điều này yêu cầu các DN nếu muốn tận dụng cơ hội “vươn tới và tiếp cận” thị trường rộng mở của các nước thì phải am hiểu khi tiếp cận bất cứ thị trường nào, khi đã am hiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn tiên quyết đặt ra mới có thể gia nhập sâu vào thị trường nước bạn.

Thứ ba, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ hết sức chặt chẽ, đề cập đến tất cả các nội dung, điển hình như quyền tác giả, nhãn hiệu, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, thực thi quyền sở hữu trí tuệ… Đây chính là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam khi gia nhập TPP, bởi Việt Nam đang là một trong những quốc gia vi phạm bản quyền hàng đầu thế giới. Việc các DN nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình ngay bây giờ chính là một mấu chốt giúp các DN bảo vệ được chính tài sản của DN khỏi sự xâm phạm của DN khác. Đồng thời còn thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, vì không có nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một DN đang vướng phải những tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, vấn đề bên trong của nền kinh tế. Hầu hết các DN và bản thân người dân Việt Nam chưa hình thành và bắt kịp thói quen về việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn thờ ơ, đôi khi bảo thủ. Vì vậy, khi tham gia TPP sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn về những tiêu chuẩn mới, những yêu cầu mới mà DN Việt chưa sẵn sàng để thay đổi.

Bản thân cơ hội không tự biến thành lợi ích và đôi khi chính thách thức lại làm nên cơ hội. Giữa lý thuyết và thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam sẽ tranh thủ khai thác các lợi thế trong TPP và ứng phó với thách thức, khó khăn như thế nào. Đối với các DN, chỉ khi có giải pháp phù hợp thì lợi thế tiềm năng mới trở thành hiện thực và các khó khăn mới có thể giải quyết được. Vì vậy, để biến thách thức thành lợi thế phụ thuộc vào chiến lược của bản thân DN và Nhà nước. 

Theo Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group 
Đầu tư Tài chính
(Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEAL.com) Theo bà Nguyễn Hoàng Thúy, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Australia, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên khi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương giữa hai nước.




Bên lề Hội nghị Tham tán Thương mại ​đang diễn ra tại Hà Nội, bà Nguyễn Hoàng Thúy đã có một số trao đổi với phóng viên về những điểm nổi bật trong quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Australia, nhất là những lưu ý đối với doanh nghiệp khi Hiệp định TPPcó hiệu lực.

- Là thị trường lớn, mức thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tương đối dồi dào, Australia được đánh giá là một trong những bạn hàng lớn của Việt Nam. Vậy theo bà, khi Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương được ký kết, thương mại 2 chiều giữa hai quốc gia sẽ được kỳ vọng thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Hiện Việt Nam và Australia đã trở thành đối tác thương mại quan trọng của nhau, chỉ trong vòng 10 năm (2005-2014) đã tăng gấp đôi và được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ sau khi ký TPP.

Cụ thể, năm 2005 kim ngạch thương mại đạt 3 tỷ USD, đến năm 2014 đã tăng lên 6 tỷ USD. Trong khi Australia là bạn hàng xuất khẩu đứng thứ 8 và bạn hàng nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam thì theo chiều ngược lại Việt Nam là bạn hàng đứng thứ 14 của Australia cả về nhập khẩu và xuất khẩu.

Theo Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Australia/New Zealand (AANZFTA), đến năm 2020, Australia và New Zealand sẽ xóa bỏ thuế suất đối với 100% biểu thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Về thuế suất thì cam kết của Australia trong AANZFTA đã là 100% nên TPP không đem lại lợi ích trực tiếp về thuế quan cho Việt Nam trong quan hệ với Australia nhưng Hiệp định TPP sẽ đem lại nhiều lợi ích khác ngoài thuế, ví dụ, với TPP, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương.

​Không những thế, các quy định về minh bạch hóa, thuận lợi hóa thương mại (như tự chứng nhận xuất xứ), hải quan cũng sẽ tạo thuận lợi, giúp thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam-Australia.

​Ngoài ra, các quy định chặt chẽ về quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư cũng sẽ giúp thu hút, tăng đầu tư từ Australia vào Việt Nam, từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại.

Một khía cạnh nữa là TPP cho phép cộng gộp nguyên liệu từ các nước thành viên, nên hàng hóa Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu từ các nước TPP sẽ được hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang Australia.

Với sự đa dạng của các thành viên TPP thì khả năng tăng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia sau khi TPP có hiệu lực là rất lớn.

- Một thực tế hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn chiếm đa số, vậy muốn tiếp cận thị trường Australia sẽ cần phải lưu ý những gì, thưa bà?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Chính sách thương mại và thuế của Australia khá minh bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan (các quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch động vật...) khá chặt chẽ.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm được, hoặc chưa cập nhật được các quy định nhập khẩu hàng hóa và quy định về kiểm dịch đối với hàng nhập khẩu của Australia. Vì vậy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này còn gặp khó khăn ở khâu thâm nhập thị trường và kiểm dịch.

Hơn thế nữa, thương hiệu cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm, đầu tư và phát triển xứng tầm.

Thực tế cho thấy, hầu hết những mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam được xuất khẩu vẫn chỉ ở dạng xuất thô, xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm đã qua chế biến thì phần lớn lại mang tên của đối tác nước ngoài. Giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam so với các nước có trình độ tương đương thấp hơn nhiều. Vì thế, người tiêu dùng Australia chỉ biết một số ít thương hiệu hàng xuất khẩu Việt Nam.

Với thực trạng xuất khẩu hàng hóa sang Australia như hiện nay, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải khắc phục các mặt tồn tại, hạn chế để thúc đẩy hoạt động này phát triển tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của nước ta và nhu cầu nhập khẩu của phía Australia.



- V​ới góc độ Tham tán thương mại, ​theo bà những bất cập trên cần giải quyết như thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Để tận dụng tốt nhất cơ hội mà Hiệp định AANZFTA cũng như Hiệp định TPP mang lại, theo tôi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Australia và những ưu đãi mà hàng xuất khẩu Việt Nam được hưởng trong các Hiệp định này.

Thực tế hiện nay, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia khá đơn điệu và chất lượng hàng còn nhiều bất cập khi so sánh với cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh khác, do vậy, các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư đổi mới công nghệ và chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000, HACCP,...) đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường.

Nếu muốn trụ vững trên thị trường Australia, các doanh nghiệp Việt Nam phải hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, bởi chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. ​​Đặc biệt, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết để có thể cạnh tranh tốt hơn.

Một điểm nữa cần lưu ý là khi hàng xuất khẩu đã có chỗ đứng trên thị trường thì nhất thiết doanh nghiệp phải đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hóa, tránh bị mất hay tranh chấp thương hiệu.

- Xin cảm ơn bà.

cafeF.vn
(Sàn thương mại điện tử B2B Việt Nam NOCNDEAL) - Những thay đổi trong Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) cho thấy Việt Nam đã chủ động trong cải cách thể chế, ngay trước khi ký kết Hiệp định TPP.




Sự chủ động của Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương(TPP), với tinh thần sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh, cho thấy tư duy sắc bén và tầm nhìn xa trông rộng của các nhà lãnh đạo Việt Nam.

Nhưng tự thân TPP không mang đến cho Việt Nam tất cả những thành quả như mong muốn nếu Việt Nam không chủ động và không hành động để thích ứng với TPP trong điều kiện trình độ phát triển của nền kinh tế thấp và còn nhiều khó khăn.

Trong bài viết đầu xuân Bính Thân của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), thay đổi, nâng cao chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh được nhấn mạnh như một yếu tố quyết định để thành công với TPP. Theo đó, Nhà nước sẽ phải chủ động để có những cải cách, thay đổi nhiều nhất, từ đó tạo ra thể chế kinh tế chất lượng, đảm bảo có một nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, nguồn lực được phân bổ công bằng.

Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) đã nêu rõ: Người dân được quyền làm mọi việc mà pháp luật không cấm, còn Nhà nước muốn cấm, hạn chế quyền của người dân phải thể hiện được điều đó trong luật. Tất cả những thay đổi đó cho thấy Việt Nam đã chủ động trong cải cách thể chế, ngay cả trước khi ký kết TPP.

Hệ thống pháp luật đã và đang tiếp tục được điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường hiện đại, phù hợp với các cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các Hiệp định thế hệ mới. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là hợp tác, làm ăn với nhiều bạn hàng, đối tác trên thế giới. Bởi vậy, hiểu và nắm rõ các quy định pháp luật, đồng thời điều chỉnh lại các quy định được coi là không thích ứng với yêu cầu hội nhập là vấn đề đáng quan tâm lúc này.

Nhiều nghiên cứu và từ thực tiễn các nước đều khẳng định rằng, thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế.

Thể chế tốt, bảo đảm Nhà nước pháp quyền, quyền dân chủ của người dân và phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại sẽ khơi dậy được cao nhất sức mạnh tổng hợp và các nguồn lực cho sự phát triển. Và như vậy, thể chế có vai trò quyết định đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước trong giai đoạn mới này là rất quan trọng. Vậy muốn thay đổi, việc đầu tiên là phải bắt đầu định vị được mối quan hệ Nhà nước, thị trường và doanh nghiệp.

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định thương mại tự do với EU sẽ tạo thêm xung lực mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong việc thu hút đầu tư và thúc đẩy xuất khẩu với các nền kinh tế lớn nhất thế giới; trong đó, EU với GDP trên 18.000 tỷ USD và TPP với GDP trên 20.000 tỷ USD. Nhưng khó khăn và thách thức đối với Việt Nam cũng không nhỏ. Nhà nước sẽ phải là chủ thể đưa ra những cải cách, thay đổi, để từ đó tạo ra thể chế kinh tế chất lượng.

Hiệp định TPP sẽ mở ra một sân chơi mới với người tham gia là nhiều quốc gia phát triển, với những bộ máy năng động. Chính trong sân chơi này, không chỉ doanh nghiệp, người dân mà Nhà nước cũng sẽ phải có sự cạnh tranh. Vì chỉ với những nền tảng thể chế cởi mở, minh bạch, những lợi ích từ TPP từ dự báo mới có thể được hiện thực hóa.

CafeF.vn
(Sàn giao dịch thương mại điện tử B2B NOCNDEAL) - Giới phân tích nhận định, việc thúc đẩy thông qua TPP sẽ là một thành tựu mang tính di sản trong năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama.




Ngày 22/2, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã bày tỏ "lạc quan một cách thận trọng" rằng Quốc hội nước này sẽ ủng hộ Hiệp định Đối tác xuyên Đại Tây Dương (TPP) mà chính quyền của ông đã ký với các nước châu Á.

Phát biểu với các thống đốc bang tại Nhà Trắng, Tổng thống Obama cho biết ông sẽ phải dựa vào các cử tri ủng hộ TPP thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa bởi vì các lãnh tụ công đoàn đã phản đối thỏa thuận thương mại này.

Ông Obama lưu ý rằng thủ lĩnh phe đa số tại Thượng viện do Đảng Cộng hòa kiểm soát Mitch McConnell và Chủ tịch Hạ viện, Thượng nghị sỹ Cộng hòa Paul Ryan đã ủng hộ mạnh mẽ thỏa thuận này.

Giới phân tích nhận định, việc thúc đẩy thông qua TPP sẽ là một thành tựu mang tính di sản trong năm cuối nhiệm kỳ của Tổng thống Obama.

CafeF.vn
(Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL) - Theo Bộ Công thương, Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam tham gia có chương riêng về dệt may.




Ngoài việc áp dụng các quy định chung như các hàng hóa khác trong các chương Thương mại Hàng hóa, Quy tắc Xuất Xứ, Phòng vệ Thương mại, Hợp tác Hải quan, dệt may có những quy định riêng mang tính đặc thù bao gồm 3 nội dung chính: Mở cửa thị trường (lộ trình xóa bỏ thuế quan); quy tắc xuất xứ và biện pháp tự vệ và hợp tác hải quan. Ngoài ra, Việt Nam có 2 thỏa thuận song phương với Hoa Kỳ và Mexico về cơ chế đăng ký doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu dệt may.

Theo Bộ Công thương, dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào thị trường TPP, đạt 11,2 tỷ USD năm 2014 (chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước TPP), trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 9,8 tỷ USD. Đây là một trong những mặt hàng được kỳ vọng sẽ hưởng lợi nhiều từ Hiệp định TPP vì Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và thuế suất của các nước thành viên TPP mà Việt Nam chưa ký FTA đang ở mức khá cao như Hoa Kỳ 17,5%, Canada 17%, Mexico 30% và Peru 17%. Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 hiện thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0% nhưng cũng được kỳ vọng có khả năng tăng trưởng tốt khi hàng dệt may xuất khẩu được áp dụng linh hoạt về quy tắc xuất xứ và được phép cộng gộp xuất xứ nguyên liệu trong các nước TPP.

Về thị trường Hoa Kỳ, 73,1% số dòng thuế sẽ được đưa về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 19,7% số dòng thuế sẽ được giảm thuế từ 35% đến 50% so với thuế MFN tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 11 và 13; 7,2% số dòng thuế sẽ có thuế suất bằng 0% vào năm thứ 6. Nếu tính theo kim ngạch xuất khẩu năm 2014, ngay khi hiệp định có hiệu lực, hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ có khả năng tiết kiệm được 63,5% tiền thuế nhập khẩu, tương đương 1,1 tỷ USD nếu đáp ứng được quy tắc xuất xứ của Hiệp định.

Về thị trường Canada, toàn bộ mặt hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 năm. 42,9% kim ngạch xuất khẩu vào Canada có thuế 0% năm đầu tiên và 57,1% kim ngạch có thuế 0% vào năm thứ 4.

Mexico và Peru là 2 nước sản xuất và xuất khẩu dệt may lớn nên duy trì chính sách bảo hộ cao đối với ngành công nghiệp này. Thuế nhập khẩu vào Mexico và Peru chỉ được xóa bỏ hoàn toàn vào năm thứ 16. Ngoài ra, Mê-hi-cô áp dụng hạn chế định lượng đối với một số mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu được hưởng thuế 0% nhưng sử dụng nguyên liệu thuộc danh mục nguồn cung thiếu hụt hoặc danh mục “cắt và may” được nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP.

Theo Bộ Công thương, hàng hóa xuất khẩu muốn được hưởng thuế suất thuế ưu đãi theo Hiệp định TPP phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của Hiệp định này. Đối với dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “từ sợi trở đi” hay được gọi quy tắc “3 công đoạn”, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối TPP. Quy tắc này khuyến khích phát triển ngành công nghiệp dệt may theo ngành dọc, đầu tư phát triển ngành sợi, vải, tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng trong nội khối TPP và khối cung ứng toàn cầu.

Tuy nhiên, Hiệp định quy định một số trường hợp có quy tắc xuất xứ linh hoạt hơn như: 3 nhóm hàng may mặc được áp dụng quy tắc xuất xứ 1 công đoạn, cắt và may, gồm: vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bằng sợi tổng hợp. Danh mục nguồn cung thiếu hụt gồm 194 loại sợi, vải được phép sử dụng từ ngoài khu vực TPP, trong đó 186 mặt hàng sẽ được áp dụng vĩnh viễn và 8 mặt hàng chỉ được áp dụng cơ chế này trong 5 năm.

Ngoài ra, cơ chế 1 đổi 1 áp dụng với quần nam nữ bằng vải bông xuât khẩu sang Hoa Kỳ. Doanh nghiệp mua 1 đơn vị vải bông thích hợp làm quần có xuất xứ từ Hoa Kỳ sẽ được phép sử dụng 1 đơn vị vải bông nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP để may quần xuất khẩu sang Hoa Kỳ và hưởng thuế 0%; tỷ lệ quy đổi giữa vải bông xuất xứ Hoa Kỳ và vải bông được phép nhập khẩu ngoài khối TPP khác nhau giữa quần nam và quần nữ...

N.Y
Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL - Với vóc dáng nhỏ nhắn, phong thái giản dị, chân thật nhưng sâu sắc và hóm hỉnh, câu chuyện của anh về một Hiệp định TPP “rất to tát” lại được chuyển tải một cách thật nhẹ nhàng, đơn giản. Anh là Hà Duy Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính - Trưởng nhóm Hàng hóa của Đoàn đàm phán TPP Việt Nam.




Không phải ngày một ngày hai, TPP được "bàn" đến trong suốt 7-8 năm. Vậy những ngày đầu, chúng ta đã "tham gia" như thế nào. Anh còn nhớ không?

Khoảng năm 2008-2009, Hoa Kỳ và một số nước có đến Việt Nam để giới thiệu về TPP thì tôi đã được tham gia nghe và trao đổi về Hiệp định này. Khi đó, họ giới thiệu cho chúng ta biết về TPP với những khái niệm còn rất chung, rất nhiều nội dung chúng ta cũng chưa định hình và hiểu rõ được. Những nội dung cụ thể đầy đủ hơn về sau này đã được xây dựng dần qua quá trình đàm phán.

Tôi còn nhớ, trong 3 phiên đàm phán đầu tiên, Việt Nam chỉ tham gia với vai trò là quan sát viên đặc biệt, hay còn gọi là thành viên liên kết, được phép dự đàm phán, được tham gia ý kiến nhưng không được biểu quyết. Nhưng giai đoạn đó cơ bản là trao đổi quan điểm nên vai trò của Việt Nam cơ bản cũng như 7 nước thành viên khác khi đó là Hoa Kỳ, New Zealand, Chile, Singapore, Brunei, Úc và Peru.

Tham gia đàm phán TPP có nhiều nhóm, mỗi nhóm phụ trách một lĩnh vực cụ thể. Nhóm hàng hoá gồm đại diện Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và tôi, với vai trò là đại diện Bộ Tài chính, được giao nhiệm vụ làm trưởng nhóm, điều phối trong nhóm.

Trong nhóm thì đại diện của mỗi cơ quan có nhiệm vụ rất rõ ràng, như Bộ Công Thương phải đảm bảo đối tác đàm phán phải mở cửa cao nhất cho ta, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì tập trung vào lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản, còn Bộ Tài chính thì đảm bảo mở cửa thị trường cho hàng hoá của các đối tác ở mức phù hợp nhất. Vì vậy, phải điều phối để các mục tiêu trên đều đạt kết quả cao nhất. Nói cho dễ hiểu là "đi mặc cả", xem "vốn" của mình ít hay nhiều để "mặc cả" cho phù hợp.

Vậy cụ thể đàm phán được tiến hành thế nào? Nghe nói công việc "đàm phán" rất vất vả, nặng nhọc, không chỉ "đấu" trí mà thời gian cũng rất áp lực. Với TPP, chúng ta có thế không?

Khi tham gia đàm phán, có những phiên làm chung với các nước, có phiên làm song phương với từng nước. Trong một ngày, một đoàn đàm phán có thể có một hoặc nhiều hoạt động như thế diễn ra liên tục. Cuối ngày, cả đoàn họp lại với nhau để báo cáo phần công việc của mình và xin ý kiến Trưởng đoàn để có hướng xử lý trong những ngày đàm phán tiếp theo.

Trên cơ sở những nội dung đã chuẩn bị và xin chỉ đạo về chủ trương từ nhà (ở Việt Nam-PV), chúng tôi chuẩn bị nhiều kịch bản, phương án đàm phán trong khuôn khổ đấy. Cách thức phối hợp phải thật nhịp nhàng sao cho cả đoàn như một cỗ máy đồng điệu, vận hành trơn tru, cùng nhau hoàn thành tốt dưới sự chỉ đạo từ nhà và điều phối của đồng chí Trưởng đoàn.

Tính chính thức thì có 19 vòng đàm phán, ngoài ra còn có những vòng không chính thức và rất nhiều các phiên đàm phán song phương với từng nước đối tác trong TPP. Tổng cộng khoảng 40 vòng.

Trong số đó thì có những phiên đàm phán chung kéo dài khoảng 1-2 tuần với sự tham gia thảo luận của cả 12 nước thành viên về những vấn đề chung. Ngoài ra, còn có những phiên đàm phán riêng với từng nước thành viên để xử lý các mối quan tâm chung của hai bên. Thậm chí, chỉ thảo luận trong các phiên đàm phán thôi cũng chưa đủ, hai nước còn gặp mặt thêm (đàm phán song phương) để giải quyết những khúc mắc, tồn đọng. Quá trình đó diễn ra liên tục trong suốt hơn 5 năm.

Nói chung việc đàm phán khá căng thẳng, nhất là khi các nước tổ chức đàm phán tại Nam Mỹ như ở Peru hay Chile vì sau một chặng đường dài có khi mất tới gần 48 tiếng từ lúc rời Việt Nam mới đến được Peru hay Chile thì ngay sau đó phải bắt tay vào đàm phán. Thậm chí trên đường đi cũng đã phải thu xếp lịch đàm phán song phương cũng như chuẩn bị các nội dung làm việc.


Tham gia đàm phán TPP có khá nhiều nước lớn, Việt Nam có sợ “bị bắt nạt” không?

Cũng phải xác định mình cần họ, họ cũng cần mình, như vậy thì 2 bên là đối tác của nhau. Đàm phán thành công thì lập luận phải tốt, họ lập luận tốt thì ta nghe, ta lập luận tốt thì họ cũng phải nghe. Tâm niệm như vậy để ta không phải "sợ" họ và nói chung đôi lúc cũng phải "rắn" và "liều" (cười).

Đối tác nào theo anh là khó đạt được thỏa thuận nhất?

Những nước có lợi ích là khó đàm phán nhất. Như với Hoa Kỳ là đối tác quan trọng, nếu không muốn nói là quan trọng nhất của Việt Nam trong TPP thì những mặt hàng của chúng ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ là những mặt hàng được bảo hộ ở mức cao nên quá trình đàm phán khá khó khăn, hay họ đòi ta mở cửa thị trường rất nhanh cho những mặt hàng mà họ có thế mạnh. Hoặc như với Mexico thì họ cũng rất lo ngại các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như dệt may, da giày…

Nếu định lượng, anh nghĩ, chúng ta đã đạt được bao nhiêu % mục tiêu đặt ra?

Một ngày cuối năm bận rộn, tại căn phòng nhỏ với những chồng tài liệu khổng lồ, chúng tôi có cơ hội được trò chuyện với một chuyên gia đàm phán hội nhập của Bộ Tài chính.

Mục tiêu lớn nhất của chúng tôi là làm sao mang về lợi ích nhiều nhất cho quốc gia. Định lượng thì rất vô cùng, con số là bao nhiêu còn tùy vào kỳ vọng của từng người đánh giá.

Riêng tôi, luôn xác định rằng đã đi đàm phán thì không bao giờ chỉ được mà không mất gì. Chúng ta buộc phải mở cửa thị trường ở trong khuôn khổ có thể chấp nhận được và khi các nước mở cửa thị trường cho Việt Nam thì chắc chắn phải trên mức mình chấp nhận được. Nếu họ đòi hỏi quá cao hoặc mở cửa dưới mức mình yêu cầu thì chưa thể kết thúc đàm phán.

TPP được xem như một sự kiện lớn đối với Việt Nam, thậm chí có thể còn quan trọng hơn cả thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Rất nhiều kỳ vọng, nhiều phân tích, bình luận, nhận định. Liệu chúng ta có đang "thổi phồng" quá những lợi ích, tác động mà TPP mang lại?

Sau khi chúng ta gia nhập WTO thì ai cũng nói đến WTO. Bây giờ là TPP thì công chúng và báo chí cũng "xôn xao" như vậy. Có thể thấy sự “xôn xao” ấy xuất phát từ quy mô của Hiệp định. Như WTO - đây là một tổ chức lớn, tạo ra những quy tắc thương mại toàn cầu, trong khi Việt Nam khi đó đang là nền kinh tế chuyển đổi. Hòa nhập vào WTO, Việt Nam phải sửa đổi cả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để phù hợp với các cam kết. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng.

TPP cũng tương tự. Với hàng nghìn trang văn kiện, hàm lượng nội dung đồ sộ hơn trong nhiều lĩnh vực. Khác với các Hiệp định thương mại tự do đã ký, TPP có phạm vi rộng hơn, mức độ cam kết sâu hơn, từ đó tác động lớn hơn và buộc ta sẽ phải có nhiều điều chỉnh cơ chế chính sách. Hiện nay, dù chưa thực hiện TPP, chúng ta vẫn đang tái cơ cấu nền kinh tế để phù hợp hơn với xu hướng hội nhập. Thêm TPP, nền kinh tế nước ta sẽ có thêm cú hích, thêm động lực, thêm sức ép để quyết tâm tái cơ cấu mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên cũng phải nói điều đó có xảy ra không còn tuỳ thuộc TPP khi nào được ký kết và phê chuẩn có hiệu lực; và chúng ta cũng cần bình tĩnh, tỉnh táo để đánh giá, nhận định đầy đủ cơ hội cũng như thách thức của TPP.

Nhìn chung, mỗi nền kinh tế, dù có quy mô khác nhau, nhưng đều tồn tại các doanh nghiệp khác nhau từ lớn, vừa và nhỏ, siêu nhỏ. Mỗi loại doanh nghiệp đều có phân khúc thị trường riêng và lợi thế riêng. Vấn đề là doanh nghiệp phải khai thác được lợi thế đó. Trong một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp phải tự thân là chính. Kết quả đàm phán chỉ đem lại cơ hội, còn biến cơ hội đó thành thực tế thì phụ thuộc vào chính doanh nghiệp.

Xin cảm ơn những chia sẻ của anh!

CafeF.vn
Ngày 4-2-2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam (các nước này có tổng quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu). Mặc dù được đánh giá sẽ là cơ hội lớn, tuy nhiên cho đến thời điểm này, không ít DN dệt may, giày da rất lo lắng bởi chưa nắm bắt được các vấn đề cụ thể trong TPP.



Ngành giày da chủ yếu vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước không tham gia TPP.

CÒN “MÙ MỜ” VỀ TPP

Đây là câu trả lời của rất nhiều DN trong ngành may mặc, giày da khi hỏi về TPP. Họ cho rằng, mặc dù có nghe nói đến TPP nhiều nhưng lại không nắm bắt được các điều khoản cụ thể. Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc Công ty May Bà Rịa (xã Tam Phước, huyện Long Điền) cho biết: “Chúng tôi có nghe nói nhiều đến TPP. Song thành thực mà nói, chúng tôi chưa hiểu TPP sẽ tác động cụ thể đến DN như thế nào”.

Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh cho biết thêm, Công ty May Bà Rịa đang sản xuất giày leo núi và trượt tuyết, mỗi năm xuất khẩu đi các nước châu Âu hơn 15.000 sản phẩm. Hầu hết các nguyên phụ liệu sản xuất của Công ty May Bà Rịa đều phải nhập khẩu. “Thậm chí, nút nhựa chúng tôi còn phải nhập khẩu từ Trung Quốc”, bà Hạnh nói.

Nguyên liệu nhập khẩu là một trong những thách thức lớn cho ngành dệt may, da giày khi TPP được ký kết. Vì thực hiện quy tắc xuất xứ của TPP, quy định hàng dệt may, da giày của Việt Nam nhập nguyên liệu từ các nước không tham gia hiệp định thì hầu như sẽ không được hưởng các ưu đãi. Hiện Việt Nam chủ yếu nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Riêng tại BR-VT, tỉnh vẫn đang chủ trương hạn chế thu hút đầu tư các lĩnh vực nhuộm, sợi, da thuộc do hệ lụy về ô nhiễm, thâm hụt lao động… Điều này cũng làm cho vấn đề nguyên liệu cung cấp cho các ngành dệt may, da giày trở nên khó khăn hơn.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Phong Thái (có 2 công ty đang hoạt động sản xuất về giày da, bóng golf và bóng da là Công ty TNHH Sản xuất giày Uy Việt và Công ty TNHH Đông Phương Vũng Tàu) cho biết, hiện tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu của Uy Việt chiếm khoảng 60%, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… Trong khi đó, các nước này lại không tham gia TPP nên khó hưởng các ưu đãi từ Hiệp định này.

Ngành dệt may được hưởng nhiều ưu đãi từ TPP.

CẦN THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ MAY MẶC

Theo bà Bùi Thị Dung, Giám đốc Sở Công thương, một trong những lợi ích quan trọng nhất mà TPP mang lại chính là các DN sẽ được tham gia chuỗi giá trị hàng hóa nội khối. Nhưng để tham gia vào chuỗi giá trị, các sản phẩm, hàng hóa của DN phải đạt chuẩn quốc tế. Đáng tiếc là hiện nay, sản phẩm của DN trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn quốc tế chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Bà Bùi Thị Dung cho biết thêm, trong thời gian tới, Sở Công thương sẽ tăng cường tuyên truyền, phổ biến tới DN, Hiệp hội về các Hiệp định đã và đang ký kết, nhất là TPP. Đầu tháng 2-2016, Sở Công thương đã phối hợp các sở, ban ngành làm việc với đoàn nghiên cứu Đại học Canberra (Úc) và Hội doanh nghiệp Việt - Úc do Tiến sĩ Scott H. Murray dẫn đầu để thực hiện đề tài nghiên cứu “Tác động của chuỗi giá trị TPP đối với nền kinh tế của BR-VT”. Riêng đối với ngành dệt may, cuối năm 2015 Sở Công thương đã tiến hành khảo sát 32 DN trên địa bàn tỉnh, đánh giá mặt mạnh cũng như điểm yếu của các DN trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, thời gian tới tỉnh sẽ đẩy mạnh các hoạt động nhằm đa dạng hóa mặt hàng dệt may, quan tâm nhiều hơn vấn đề xuất xứ nguyên liệu để bảo đảm đủ tiêu chuẩn hưởng chính sách ưu đãi từ TPP.

Theo Sở Công thương, trước mắt để giải quyết các khó khăn, vướng mắc và nâng cao tính cạnh tranh cho các DN ngành dệt may, Sở Công thương kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo Ban Quản lý Các KCN làm việc với chủ đầu tư KCN hình thành phân khu công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, đồng thời hỗ trợ tiền thuê mặt bằng nhà xưởng cho các DN thuộc lĩnh vực này, có cơ chế hỗ trợ (phù hợp với quy định chung) cho DN để có vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ… nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: LAM GIANG

Theo Bộ Công thương, thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ của các mặt hàng dệt may từ Việt Nam giảm 50% ngay năm đầu tiên TPP có hiệu lực (tương đương 1 tỷ USD) và sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 30% mỗi năm; về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP. Đối với ngành da giày, dự kiến giảm khoảng 60% số thuế nhập khẩu phải nộp cho Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu được đánh giá sẽ tăng khoảng 25% so với tốc độ tăng 15% trước khi tham gia TPP; kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và sản phẩm chế biến có khả năng tăng lên. Đồng thời, tham gia TPP là cơ hội để Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nói để đạt được trọn vẹn các lợi ích từ TPP, Việt Nam cần thực hiện tất cả các cam kết trong đó có việc giảm bớt vai trò doanh nghiệp nhà nước.


Ông Ted Osius đã có 25 năm làm ngoại giao, với phần lớn thời gian làm việc ở châu Á.

Trả lời phỏng vấn với Nguyễn Hoàng của BBC Tiếng Việt tại Hà Nội vào đầu tháng này, ông Ted Osius cũng nói rằng Việt Nam nên tận dụng lợi thế là nước tham gia sớm và hưởng lợi kinh tế từ thỏa thuận TPP.

BBC: Thỏa thuận TPP đã được ký kết. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói rằng TPP là một dạng thỏa thuận mậu dịch mới "đặt quyền lợi của người lao động Mỹ là trên hết". Ông có nghĩ rằng điều này cũng đúng với trường hợp người lao động ở Việt Nam hay không?

Vâng tôi cũng nghĩ vậy. Có một thỏa thuận mạnh mẽ về lao động trong TPP. Thực ra là có thỏa thuận cụ thể giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về quyền của người lao động. Và Việt Nam đã quyết định đưa ra những cam kết phù hợp với chính sách chung của Việt Nam là hội nhập quốc tế toàn diện và đã quyết tâm tuân thủ tất cả các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) liên quan tới quyền của người lao động nên đây là một bước đi quan trọng. Tôi nghĩ rằng bước đi này tốt cho người lao động Việt Nam và tốt cho tất cả các nước tham gia thỏa thuận TPP đã được ký.

BBC: Hoa Kỳ và Việt Nam vào năm 2001 ký kết hiệp định thương mại song phương (BTA). Tới nay là hơn 15 năm việc thực hiện thỏa thuận này nhưng Hoa Kỳ vẫn xem Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường. Do đó đối với TPP phải chăng cũng cần phải có thời gian để thực hiện sao cho hợp lý?

Đúng là cần phải có thời gian để thực hiện các cam kết. Hầu hết các cam kết của Việt Nam phải được thực hiện trước khi TPP có hiệu lực. Tức là khoảng hai năm nữa kể từ lúc này. Có một số cam kết theo lộ trình trong lĩnh vực thuế quan. Có một số lĩnh vực mà Việt Nam đã đàm phán để có được lộ trình phù hợp nhằm tạo điều kiện cho một số ngành trong nước có thêm thời gian để điều chỉnh.

Về lao động thì phần lớn các cam kết phải được thực hiện trước khi thỏa thuận có hiệu lực. Do hệ thống lập pháp và hệ thống chính trị của Việt Nam nên có thể cần phải mất nhiều thời gian hơn và phải được thực hiện trong vòng 5 năm. Do đó đối với một số ít các cam kết thì cần có thêm thời gian thực hiện nhưng hầu hết mọi cam kết phải được thực thi khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực.

Cuộc phỏng vấn với Đại sứ Osius được thực hiện tại tư dinh của ông và gia đình ở Hà Nội.

BBC: Khác với một số nước tham gia TPP, Việt Nam có đặc thù là nền kinh tế do nhà nước nắm phần chủ đạo. Khi Việt Nam tham gia TPP thì ông nghĩ rằng để hưởng lợi toàn diện từ thỏa thuận này thì Việt Nam đối diện những thách thức gì?

Để có thể đạt được trọn vẹn các lợi ích từ TPP thì Việt Nam phải thực hiện tất cả các cam kết của mình. Đó là vì Việt Nam sẽ không hưởng lợi được chừng nào mà Việt Nam hoàn thành quá trình thực hiện cam kết của mình. Để thực sự có được đầy đủ các lợi ích bao gồm dịch chuyển được lên chuỗi giá trị, cũng như cắt giảm một số dòng thuế, tham gia vào 40% nền kinh tế thế giới, thì Việt Nam cần phải mở rộng khu vực kinh tế tư nhân. Và TPP đã mở ra một hướng để Việt Nam có thể thực hiện được điều mà Việt Nam muốn làm bấy lâu nay, theo đó phải giảm bớt vai trò của các doanh nghiệp nhà nước và tăng cường vai trò của khu vực tư nhân.

Sẽ có thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tận dụng một cách toàn diện lợi ích của TPP theo đó doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng chính phủ Việt Nam khá nghiêm túc bắt tay vào chiến dịch nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp ngay lúc này. Tôi thấy Việt Nam không hề do dự. Đại hội Đảng mới đây đã nhất trí cho việc thông qua TPP và tôi thấy đã có sự chủ động cao trong việc triển khai việc nâng cao nhận thức cho lĩnh vực nông nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam đối với những lợi ích mà TPP có thể mang lại.

BBC: Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận đối tác toàn diện, trong chừng mực nào TPP sẽ là lực đẩy mạnh hơn cho quan hệ Mỹ-Việt?

Tôi nghĩ là vô cùng lớn. TPP là ưu tiên số một của chúng tôi và tôi nghĩ rằng thỏa thuận này tạo ra nền tảng cho các mối quan hệ trong nhiều thập kỷ tới bởi vì nó làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác kinh tế, giúp Việt Nam trở nên thịnh vượng hơn, mạnh hơn và độc lập hơn và tạo cơ hội cho các quốc gia tham gia khu vực tư nhân trong thời gian dài nữa. Vì vậy, tôi nghĩ rằng thỏa thuận này là sự đóng góp rất lớn.

Theo BBC
Trong các đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một thỏa thuận tự do thương mại giữa Mỹ và 11 đối tác thương mại khác giáp với Thái Bình Dương. TPP là giữa Brunei, Australia, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam chiếm đến chiếm 40% tổng sản lượng GDP toàn cầu (số liệu năm 2012). Nếu tính số liệu mới nhất năm 2014 thì 12 nước tham ra TPP tạo ra 45,20% sản lượng GDP của thế giới.

Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới


Trong đó có 3 nước gồm Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới, tức 3 nước này chiếm đến 38,4% sản lượng GDP toàn cầu. Đáng buồn, sản lượng kinh tế của VN năm 2014 chỉ tạo ra 186,20 tỷ đô la Mỹ, tức là chỉ chiếm 0,30% sản lượng GDP của thế giới.

Ta nhắc lại, thực tế hiên nay, chỉ có Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đang lưu hành và áp dụng, hiện là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới nó bao gồm 3 nước giữa Mỹ, Canada và Mexico với sản lượng GDP kinh tế hiện nay là 20.488,38 tỷ USD, tức chiếm 33,05% GDP của nền kinh tế thế giới.

Nếu khu vực thương mại TPP được hình thành có lẽ gần hết năm 2017, thì nó sẽ là lớn hơn so với các Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA).

Tuy nhiên, Mỹ cũng đang đàm phán Thương mại và Đầu tư Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương (TTIP) với Liên minh châu Âu – EU, quy tụ 28 thành viên, gồm: Áo, Bỉ, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania , Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh với 508,2 triệu người vào năm 2014, với sản lượng kinh tế cao nhất địa cầu, nếu tính số liệu mới nhất trong năm 2014 thì sản lượng GDP của 28 nước Liên minh châu Âu đạt được là 18.460,60 tỷ USD, chiếm 29,78% sản lượng GDP của nền kinh tế thế giới, cộng thêm 318,86 triệu dân Mỹ nữa thì sức nặng thật đáng ngại, vì nó có số dân chiếm đến 827 triệu dân.. Nếu cộng sản lượng GDP của EU và Mỹ tạo ra trong năm 2014 lên đến 35.879,60 tỷ USD, tức chiếm đến 57,88% sản lượng GDP toàn cầu.

Nếu cả TPP và TTIP cùng ký thành luật và áp dụng ra thị trường thì rõ ràng “tam hùng” này xếp theo thứ tự: ngôi vị số 1 thuộc về TTIP, số 2 thuộc về TPP, và số 3 thuộc về NAFTA.

Trở về hồ sơ tam hùng của 3 nước trong TPP, gồm Mỹ, Nhật, Canada thì rõ ràng ta sẽ thấy 3 nước này nằm trong nhóm G-7, quy tụ 7 nước công nghiệp hóa hàng đầu của thế giới gồm: Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hoa Kỳ và Canada (Nga bị loại, trước đây là G-8, do Nga chiếm bán đảo Crimea của Ukraine, và kinh tế Nga từ hạng 8 nay rơi xuống vực chỉ xếp thứ hạng 11 các nền kinh tế lớn của thế giới).

Trong 3 nước này là thành viên Câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức, cũng nằm trong Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs được Quỹ Tiền tệ Quốc tế đặt ra năm 1969, thì đồng USD và đồng yên Nhật (JPY) nằm trong rổ tệ mạnh, ngoài đồng Bảng Anh (GBP), đồng EUR. Đối với Trung Quốc sắp tới thì muốn đem “tiền của người dân” (the money of the people), như đồng nhân dân tệ (RMB) vào Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs.

Cũng trong tam cường Mỹ, Nhật, Canada này thì cả ba nước đều có đồng bạc nằm trong rổ tiền để tính ra giá trị của đồng USD qua chỉ số gọi là (USDX, DXY) gồm 6 loại tiền thông dụng là đồng EUR, yên Nhật (JPY), Bảng Anh (GBP), đồng đô la Canada (CAD), Krona Thụy Điển (SEK), Franc Thụy Sĩ (CHF). Đây là lĩnh vực rất chuyên môn về tài chính để tính toán lời lỗ trong kinh doanh, qua việc có thể trao đổi song phương bằng đồng tiền của từng đối tác để hạn chế rủi ro về tỷ giá.

Qua đó nó cho thấy sức nặng quá lớn của tam cường có nền kinh tế và khoa học hiện đại nhất hành tinh, như Mỹ, Nhật chẳng hạn. Việt Nam chỉ là một nước chậm tiến với sản lượng kinh tế quá ít ỏi nên không có bất cứ trọng lượng nào cả.

Đối với Mỹ, hãy thận trọng, tuy Mỹ xuất khẩu chỉ chiếm 13% của GDP, nhưng Mỹ lại là nước xuất khẩu lớn thứ ba của thế giới sau Trung Quốc và khối kinh tế 28 nước EU cộng lại. Cụ thể, trong năm 2014, Mỹ xuất khẩu hàng hóa của Mỹ 1.621 tỷ USD. Trong khi TQ xuất khẩu được 2.343 tỷ USD hàng hóa, khối kinh tế EU xuất khẩu được là 2.173 tỷ USD. Điều đó cho thấy VN đừng hồ hởi sảng mà dễ dàng cạnh tranh được hàng hóa Mỹ. Về nhập khẩu, Mỹ lại là nước nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới.

Hãy cảnh giác, tuy xuất khẩu nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm chỉ 1,5% của GDP, nhưng do sử dụng công nghệ tiên tiến, Mỹ lại là một nước xuất khẩu ròng lương thực rất lớn. Chẳng hạn, trong quý thứ hai của năm 2015, GDP từ nông nghiệp tạo ra lên đến 191,10 tỷ USD. Chỉ cần có một quý thôi đã tạo ra sản lượng GDP lớn hơn sản lượng GDP của Việt Nam tạo ra trong năm 2014 chỉ có 186,20 tỷ USD. Trong quý đầu tiên của năm 2013, GDP từ nông nghiệp của Mỹ lên đến 235,10 USD tỷ USD,…

Đối với Canada, VN hết sức thận trọng về lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá và săn bắn chỉ chiếm 2% sản lượng GDP của Canada, nhưng hãy nhớ rằng Canada lại là quốc gia xuất khẩu ròng về lĩnh vực nông nghiệp lớn nhất thế giới bởi các sản phẩm nông nghiệp. Thật bất hạnh cho VN, nếu không tỉnh táo cải tiến năng suất, giảm thuế, tự chủ về thức ăn cho chăn nuôi, hay các lĩnh vực khác thì chắc chắn lĩnh vực nông nghiệp tại VN sẽ bị xóa sổ bởi TPP chỉ cần hai nước này thôi.

Đối với Nhật thì rõ ràng không cần phân tích gì nhiều thì tất cả người VN đều biết sản phẩm của Nhật. Tuy nhiên, Nhật là nước nhập khẩu lương thực rất lớn, tất nhiên phải là những sản phẩm đáp ứng theo tiêu chuẩn khắt khe của Nhật, những trò gian dối dùng thuốc tăng trưởng hay chất kích thích sẽ không bao giờ qua mắt được Nhật.

Hãy thận trọng, Nhật là nước xuất khẩu rất lớn thứ 3 trên thế giới xếp sau Trung Quốc và Đức, với kim ngạch xuất khẩu chiếm gần một phần ba sản lượng GDP kinh tế của Nhật trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, thật may mắn, lĩnh vực xuất cảng của Nhật ít trùng khớp với các mặt hàng xuất cảng của VN.

Nói riêng về VN, trong 12 nước tham gia TPP thì VN có sản lượng GDP thấp nhất chỉ xếp trên Vương quốc Brunei (tuy nhiên Brunei là nước nhỏ, nhưng rất giàu có).

Nói chung, khi phát triển kinh tế bằng hội nhập quốc tế, thì VN cũng phải tính toán bền vững về dài, bởi lẽ lợi thế nhân công rẻ không bao giờ là mãi mãi nếu VN muốn đòi hỏi trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 – 2040. Tuy trước mắt VN cần thu hút đầu tư nước ngoài bằng đồng lương thấp để tích lũy tư bản tài chính để nhằm nâng đồng lương cho công nhân cao hơn sau này. Thực tế, khi VN gia nhập TPP thì về dài hạn phải đổi mới bằng năng suất lao động cao hơn, vì lương thấp sẽ hết là hấp dẫn giới đầu tư khi VN đã là tư cách một nước công nghiệp (vì VN muốn vậy). Điều đó nôm na là VN không phải là nước làm gia công cho thiên hạ nữa nếu muốn “hóa Rồng”.

Muốn thế thì phải nghĩ đến việc cải tiến cao hơn để làm ra mặt hàng có giá trị kinh tế hơn, việc này đòi hỏi nhân công phải có tay nghề và kỹ thuật cao hơn, điều đó phải có yếu tố nền giáo dục có phẩm chất.

Thực tế, để tăng sản phẩm suất siêu có phẩm chất thì VN cần phải nâng cao tối đa tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, tất nhiên, đội ngũ nhân công phải được đào tạo tốt, bởi lẽ VN có đủ điều kiện làm việc này vì có nhiều tài nguyên khoáng sản, con người thông minh, nhưng đáng tiếc là những sản phẩm tạo ra đều là mặt hàng thô không có lời nên kém hấp dẫn các đại công ty Mỹ, hay EU và Nhật để họ nhập hàng vì nhiều lý do, như ít sáng tạo vì hệ thống đào tạo đại học và sau tại VN là quá lạc hậu.

FB: Phương Thơ, Morgan Stanley (NYSE: MS)

Ngày 26/1/2015, các nước thành viên TPP đã công bố bản toàn văn chính thức của Hiệp định.
Ngày 4/2/2016, Hiệp định TPP đã được chính thức ký kết tại New Zealand.
Dưới đây là nội dung chi tiết Toàn văn Hiệp định TPP (bản chính thức) bằng tiếng Anh và bằng tiếng Việt cùng với các Bản Tóm tắt nội dung các Chương Hiệp định của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) và Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) bằng tiếng Anh và Bộ Công Thương Việt Nam (MOIT) bằng tiếng Việt.
Nội dung Hiệp định:
Lời mở đầu (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Chương 1: Các điều khoản và định nghĩa chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | DFAT 
Chương 2: Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT 
Phụ lục 2-D: Lộ trình cắt giảm thuế
Chương 3: Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
  • Phụ lục 3-D: Quy tức xuất xứ cụ thể mặt hàng (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
  • Phụ lục 3-D: Tiểu phụ lục 1 - Các điều khoản liên quan đến Quy tắc xuất xứ cụ thể cho phương tiện và bộ phận của phương tiện (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Chương 4: Dệt may (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 5: Hải quan (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 6: Phòng vệ Thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR MOIT  DFAT
Chương 7: Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 8: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt)  
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 9: Đầu tư (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 10: Thương mại dịch vụ xuyên biên giới (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 11: Dịch vụ Tài chính (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 12: Nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Phụ lục 12-A: Nhập cảnh tạm thời
Chương 13: Viễn thông  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 14: Thương mại điện tử  (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 15: Mua sắm Chính phủ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
​​Phụ lục 15-A: Mua sắm Chính phủ
Chương 16: Cạnh tranh  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT |DFAT
Chương 17: Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và độc quyền chỉ định  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT DFAT
Chương 18: Sở hữu trí tuệ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 19: Lao động (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
Chương 20: Môi trường (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 21: Hợp tác và nâng cao năng lực  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 22: Nâng cao sức cạnh tranh và Thuận lợi hóa hoạt động kinh doanh (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 23: Phát triển (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 24: Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 25: Hội tụ phương pháp hoạch định chính sách thương mại (Tiếng Anh (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 26: Minh bạch hóa và chống tham nhũng (Tiếng Việt) (Tiếng Anh
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 27: Các điều khoản hành chính và thể chế (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 28: Giải quyết tranh chấp (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 29: Các ngoại lệ và các điều khoản chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 30: Các điều khoản cuối cùng (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT

PHỤ LỤC
Phụ lục I: Non-Conforming Measures:
Phụ lục II: Non-Conforming Measures:
Phụ lục III: Dịch vụ tài chính
Phụ lục IV: Doanh nghiệp nhà nước

Ngoài các cam kết chính trong văn bản Hiệp định, các bên còn xây dựng các Thư song phương nhằm làm rõ hơn một số nội dung cam kết hoặc thổng nhất cách hiểu về một số nội dung cam kết trong Hiệp định. Dưới đây là các Thư song phương của Việt Nam với một số đối tác TPP:
Thư song phương giữa Việt Nam và một số đối tác TPP: 
Australia
Brunei Darussalam
Canada
Chile
Japan
Malaysia
Mexico
New Zealand
Peru
Singapore
United States
Nguồn: www.trungtamwto.vn