Ngày 30 tháng 11 năm 1939, ba tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ  Liên Xô xâm lược Phần Lan với tương quan, lập luận và diễn tiến như sau:

- đánh một quốc gia nhỏ hơn nhiều và cho rằng lãnh thổ quốc gia này từng là của mình.

- được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi kẻ thù đến quá gần biên giới của kẻ tấn công.

- cuộc xâm lược dựa trên thông tin hoàn toàn sai lầm đã tạo ra những kỳ vọng quá ... lạc quan.

- cố gắng xúi giục những người bị xâm lược đứng về phía bạn, thất bại thảm hại.

- kẻ thù nhận được tình nguyện viên quốc tế và những gì không dể gì nhận được trước đây.

- lãnh đạo quân sự không đủ năng lực, chủ yếu dựa trên lý do chính trị.

- tuân theo các kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh” một cách máy móc, ngay cả khi rõ ràng là nó sẽ phá sãn.

- ... áp lực từ cấp trên để tiếp tục làm điều đó, trước khi các quốc gia khác tham gia quá nhiều.

- sa lầy trong tuyết và bùn.

- những cơn ác mộng lớn về hậu cần.


- ... bị kẻ thù đang đứng sau phòng tuyến của bạn và phục kích các đoàn xe tiếp tế

- xe tăng đắt tiền bị phá hủy bởi súng ống, quân dụng rẻ tiền

- ... những xe tăng đó hóa ra không tuyệt vời như những lời tuyên truyền trước đây khiến người ta tin tưởng.

- sử dụng hàng loạt lính nghĩa vụ được đào tạo kém và không có động cơ.

- vấn đề tinh thần nghiêm trọng, dẫn đến việc binh lính đầu hàng hoặc bỏ chạy.

- ... và những tay súng bắn tỉa của kẽ thù khủng bố về tinh thần.

- các cuộc đàm phán về thanh trừng chính trị.

Cuộc chiến thúc ba tháng rưỡi sau đó với Hiệp ước Hòa bình Moscow vào ngày 13 tháng 3 năm 1940. Mặc dù có sức mạnh quân sự vượt trội, đặc biệt là về xe tăng. và máy bay, Liên Xô bị tổn thất nghiêm trọng và bước đầu đạt được ít tiến bộ. Hội Quốc Liên coi cuộc tấn công là bất hợp pháp và trục xuất Liên Xô khỏi tổ chức.



Kết quả cuộc chiến.

Về mặt lãnh thổ:  Nhượng quyền các đảo ở Vịnh Phần Lan , eo đất Karelian , Ladoga Karelia , Salla , bán đảo Rybachy và cho Liên Xô thuê Hanko.

Về chủ quyền quốc gia: Phần Lan vẫn giữ được chủ quyền và nâng cao uy tín quốc tế của mình.

Tác dụng phụ : khó chịu cho Liên Xô trong cuộc chiến này khi cho cả thế giới thấy rằng , Liên Xô không mạnh như người ta nghĩ.

 

Nếu cho rằng màu sắc của cuộc chiến hiện nay không có thay đổi nhiều so với cuộc chiến mùa Đông năm 1939-1940 thì kết  quả sẽ là một Hiệp ước được ký kết giữa Ukraine vs Nga trong vài tháng tới.

Về mặt lãnh thổ:  công nhận độc lập cho 2 vùng ly khai DPR và LPR, và tuyên bố trung lập.

Về chủ quyền quốc gia: Nga không thay đổi chính quyền Ukraine được , Ukraine vẫn giữ được chủ quyền và nâng cao uy tín quốc tế của mình.

Tác dụng phụ : khó chịu cho Nga trong cuộc chiến này khi cho cả thế giới thấy rằng , Nga không mạnh như người ta nghĩ. Với tư tưởng Đại Nga, Putin đã xóa sạch mọi cơ hội của toàn cầu hóa và nền kinh tế mà Ông ta đã mất 22 năm xây dựng.

 

Ai nhìn thấy nguyên nhân sâu xa của Putin khi xua quân tấn công một nước có chủ quyền, có nhân dân anh dũng và yêu chuộng tự do, chứ cá nhân tôi chỉ nhìn thấy hình ảnh của một nhà độc tài muốn đưa lịch sữ thế giới nói chung và lịch sữ nước Ukraine và Nga nói riêng, trở về thời chiến quốc dùng chiến tranh để chiếm đoạt tài nguyên, mở rộng lãnh thổ, giải quyết nhân mãn, chứ không muốn xây dựng một nước Nga văn minh,có công nghệ, tiềm năng, tài lực có thể mở mang bờ cỏi ra ngoài trái đất, đem văn minh loài người đến với vũ trụ , nâng tầm giống, loài người lên một mức mới. Tầm nhìn của những bạo chúa và độc tài thì lịch sữ nhân loại đã cho chúng ta biết nhiều rồi. Và kết cục của họ thì cũng dễ đoán./.

 

Minh Phạm

 

Lịch sử dạy rằng, một siêu cường không thể duy trì vai trò thống soái được lâu trừ khi đưa ra được một giải pháp tự đều chỉnh hoàn hảo và một thông điệp thích hợp cho toàn thế giới.

Các nước đã là siêu cường hoặc đang muốn phát triễn thành siêu cường , trên cơ sở đó , đưa ra các bước điều chỉnh chiến lược , có thể dựa vào sức mạnh tài chính hoặc sức mạnh quân sự. Kết cuộc của nó không là chiến tranh nóng thì sẽ là chiến tranh lạnh.

Chiến tranh trong thế kỷ XXI đã có một sắc thái hoàn toàn mới. Các cuộc chiến tranh ngày nay không phải là cuộc chiến giữa các quốc gia mà có cả mạng lưới các tác nhân nhà nước và phi nhà nước, bao gồm lính đánh thuê, các công ty an ninh tư nhân, côn đồ… Toàn cầu hóa đã gây ra vô số vấn đề bằng cách phá hoại chủ quyền của nhà nước. Toàn cầu hóa vốn được cho là khuyến khích chính trị và hợp tác quốc tế cuối cùng lại tạo ra nhiều chia rẽ hơn.

Mary Kaldore - Giáo sư tại Trường Kinh tế London, là một trong những học giả đã thừa nhận tác động của toàn cầu hóa đối với đặc điểm của chiến tranh. Bà cho rằng, các cuộc chiến tranh mới khác với các cuộc chiến tranh cũ bởi ai là người chiến đấu, những cuộc chiến tranh này diễn ra vì lý do gì, được tài trợ như thế nào và diễn ra như thế nào.

Có thể thấy việc Điều chỉnh chiến lược trên trường quốc tế đã diễn ra như sau:

Mỹ và mục tiêu:

Với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường duy nhất, Mỹ tiếp tục đẩy mạnh chiến lược quân sự, an ninh toàn cầu bằng việc tập hợp lực lượng, điều chỉnh chiến lược với từng khu vực để khống chế, kìm hãm các thế lực thách thức “ngôi vị số 1” của mình. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chính quyền Joe Biden vừa phải thận trọng trong việc tìm cách cân bằng lợi ích của Mỹ trên thế giới, vừa củng cố và tăng cường vị thế siêu cường, đưa nước Mỹ “vĩ đại trở lại”, đảm bảo cho họ vẫn là quốc gia đặt ra “luật chơi” trong quan hệ quốc tế.

Trung Quốc và mục tiêu

Trung Quốc với sức mạnh được tăng lên sau nhiều năm phát triển, đang mở rộng không gian chiến lược để khẳng định vị thế cường quốc khu vực và quốc tế. Hiện nay, họ đang triển khai nhiều biện pháp, như: tăng thực lực quân sự, chú trọng phát triển nhanh lực lượng hải quân để mở rộng hoạt động ra hướng biển, gia tăng ảnh hưởng ở Đông Nam Á, Đông Á, từng bước cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. Tiến bước xa hơn, Trung Quốc đẩy mạnh thực thi sáng kiến “Vành đai và con đường”, tham gia và thúc đẩy nhóm nền kinh tế mới nổi (BRICS) và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), hướng tới xây dựng cơ chế hợp tác lấy Trung Quốc là trọng tâm, động lực. Sự phát triển đó dẫn đến mâu thuẫn, căng thẳng, cọ xát giữa Trung Quốc với Mỹ, diễn ra tại nhiều khu vực trên thế giới, nhưng ở châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông theo hướng ngày càng tăng.

Liên Minh Châu Âu và mục tiêu

Còn đối với EU, đang hướng vào xử lý các vấn đề nổi cộm của khối, như: Brexit, khủng hoảng nợ công, nhập cư, chống khủng bố, v.v. Vì vậy, sự quan tâm và nguồn lực dành cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, EU vẫn duy trì quan hệ với các đối tác ở các khu vực khác, trong đó có ASEAN.

Nga và mục tiêu

Đối với Nga, Tổng thống V.I. Pu-tin đẩy mạnh các hoạt động nhằm giành lại vị thế của mình tại các khu vực ảnh hưởng truyền thống và trên quốc tế, nhất là trước sự kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây, từ sau khi Nga sáp nhập Crưm. Điển hình là, Nga tăng cường lực lượng, vũ khí, triển khai tấn công và giành nhiều thắng lợi trong việc không kích lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) ở Xy-ri. Điều đó chứng tỏ, mặc dù gặp nhiều khó khăn về kinh tế, nhưng Nga vẫn là một cường quốc, có đủ lực để sẵn sàng bảo vệ lợi ích, đồng thời buộc Mỹ và phương Tây phải tính tới vai trò của mình khi giải quyết những vấn đề trên thế giới.

Sức mạnh tài chính đi kèm với điều chỉnh chiến lược

Hệ thống đồng đô la

Trong những năm 1960s, Bộ trưởng Tài chính Pháp Valery Giscard d'Estaing phàn nàn rằng sự thống trị của đồng USD tạo cho nước này một "đặc quyền thái quá", nước Mỹ có thể vay mượn với giá rẻ từ phần còn lại của thế giới và sống vượt hơn cả nguồn lực của mình. Từ đó, các đồng minh và đối thủ của Mỹ thường than phiền tương tự. Tuy nhiên, đặc quyền lớn này cũng kéo theo gánh nặng  khổng lồ đối với sự cạnh tranh thương mại và việc làm của Mỹ và ngày càng trở nên bất ổn khi tỷ trọng kinh tế Mỹ trong tương quan toàn cầu ngày càng thu hẹp. Các thiết chế tài chính và các tập đoàn doanh nghiệp lớn được hưởng lợi từ sự thống trị của đồng USD trong khi những chi phí của nó lại do tầng lớp lao động gánh chịu. Vì vậy, việc duy trì bá quyền đồng USD đe dọa gia tăng bất bình đẳng và phân cực chính trị trong nội bộ nước Mỹ.

Tuy nhiên, cho đến nay, nhu cầu USD trên toàn cầu không có dấu hiệu giảm. Dù vậy, Mỹ vẫn có thể mất quy chế phát hành đồng tiền dự trữ chủ đạo trên thế giới theo một cách khác: Mỹ có thể tự nguyện từ bỏ bá quyền đồng USD vì giá kinh tế và chính trị nội bộ đã trở nên quá cao.

Sau tất cả các cuộc thảo luận về “vũ khí hóa tài chính”, sở dĩ các biện pháp trừng phạt được áp dụng chống lại Nga có hiệu quả, là bởi vì liên minh quốc tế đã áp đặt chúng trên diện rộng, với các cam kết chắc chắn. Chẳng hạn, việc phong tỏa nguồn dự trữ của Ngân hàng Trung ương Nga sẽ chỉ có tác dụng nếu phần lớn hệ thống tài chính trên thế giới đồng ý với quyết định phong tỏa. Vấn đề nằm ở liên minh, không phải ở khía cạnh tài chính. Vì liên minh chống Nga gồm tất cả các thể chế tài chính lớn, chỉ trừ các ngân hàng Trung Quốc – và vì các ngân hàng Trung Quốc cũng không muốn bị tách khỏi hệ thống đó – nên các lệnh trừng phạt tài chính sẽ không dẫn đến bất kỳ thay đổi cơ bản nào trong trật tự tài chính hoặc tiền tệ của thế giới.

Các nền kinh tế cảm thấy bị đe dọa bởi Washington hiện đã có động lực để chuyển dự trữ của họ ra khỏi các cơ sở tại Mỹ. Về mặt lý thuyết, đây cũng là bài kiểm tra xem liệu Washington có đang lạm dụng quyền lực tài chính hay không. Nếu Mỹ trừng phạt quá thường xuyên, nước này có thể thúc đẩy các quốc gia khác tìm lựa chọn thay thế tốt hơn cho đồng đô la, và hệ thống thanh toán xoay quanh nó. Về lâu dài, nền kinh tế thế giới bị chia rẽ dưới sự đe dọa của các lệnh trừng phạt có thể đi theo xu hướng ấy. Nhưng trong khi điều đó chưa diễn ra, nước Nga đang chứng minh cho chúng ta thấy rằng: việc đa dạng hóa sang đồng euro, nhân dân tệ, và thậm chí vàng sẽ chẳng giúp ích gì cho các quốc gia, nếu những người chơi khác trên thị trường vẫn sợ bị loại khỏi hệ thống đồng đô la, bởi khi đó, sẽ chẳng còn ai khác để họ bán số dự trữ ngoại hối của mình. Các loại tiền điện tử cũng sẽ phải quyết định xem liệu chúng có nên ủng hộ làn sóng trừng phạt, và theo đó mất đi một số người dùng (những người coi tiền điện tử như nơi trú ẩn an toàn), hay chúng sẽ tạo điều kiện cho các nỗ lực né tránh trừng phạt, và trong trường hợp đó, chấp nhận khả năng bị các chính phủ cấm hoặc loại trừ.

Hệ thống đồng nhân dân tệ

Thời gian qua, nhiều nhà phân tích đã cảnh báo Trung Quốc và các cường quốc khác có thể quyết định từ bỏ đồng USD và đa dạng hóa dự trữ tiền tệ vì những lý do kinh tế và chiến lược. Trong báo cáo vừa mới công bố, Bank of China khuyến nghị các ngân hàng Trung Quốc cần sẵn sàng ứng phó với các biện pháp cấm vận của Mỹ thông qua việc tăng cường sử dụng Hệ thống thanh toán liên ngân hàng xuyên biên giới bằng đồng Nhân dân tệ (CIPS) ở Trung Quốc Đại lục, Hồng Công và Ma Cao thay vì hệ thống thanh toán bằng đồng USD SWIFT (Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng và tài chính quốc tế) đóng tại Bỉ. Việc sử dụng CIPS thay cho SWIFT cũng giúp giảm mức độ tiết lộ thông số giao dịch thanh toán toàn cầu của Trung Quốc cho phía Mỹ.

Báo cáo khuyến nghị trường hợp Mỹ dùng biện pháp cực đoan loại Trung Quốc khỏi hệ thống thanh toán bằng đồng đô la Mỹ, Trung Quốc có thể cân nhắc chấm dứt sử dụng đồng đô la Mỹ làm đồng tiền neo giữ cho hoạt động kiểm soát ngoại hối; đồng thời cũng khuyến nghị Trung Quốc xây dựng đạo luật giống như luật ngăn chặn trừng phạt Block Statute của Liên minh Châu Âu giúp bảo đảm cho phép duy trì làm ăn kinh tế thương mại với Iran, nước đang phải chịu các lệnh cấm vận của Mỹ.      

Đồng nhân dân tệ của Trung Quốc sẽ phải chật vật lắm mới trở thành giải pháp thay thế chính cho đồng đô la, ngay cả với các nền kinh tế thuộc khối của Bắc Kinh. Chừng nào Trung Quốc còn ngăn cản người dân tự do đưa tài sản ra khỏi hệ thống tài chính trong nước của họ, các nhà đầu tư và thậm chí cả các ngân hàng trung ương sử dụng đồng nhân dân tệ chỉ đơn giản là đang đánh đổi những lời đe dọa trừng phạt bởi Washington bằng những lời đe dọa trừng phạt bởi Bắc Kinh. Trung Quốc có thể giải quyết vấn đề này bằng cách cho phép đồng nhân dân tệ được tự do chuyển đổi, thay vì bị kiểm soát chặt chẽ. Nhưng nếu điều đó xảy ra, giá trị của đồng nhân dân tệ có thể sẽ giảm mạnh suốt một thời gian dài, như đã xảy ra trong hai năm 2015-2016, khi Trung Quốc tạm thời tự do hóa tài khoản vốn của mình, vì hàng tỷ người giữ tiền tiết kiệm ở Trung Quốc đã tuyệt vọng cố gắng đa dạng hóa danh mục đầu tư bằng cách chuyển tài sản của họ đi nơi khác, để theo đuổi lợi nhuận cao hơn. Tất nhiên, nhân dân tệ vẫn có thể trở thành đồng tiền dự trữ cho các nền kinh tế nhỏ nơi Trung Quốc thống trị và cho các quốc gia bị bài xích – những nước thực ra không còn lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, hành động đó chẳng giúp được gì nhiều cho việc đa dạng hóa đầu tư, hoặc tạo ra lợi nhuận cho các khoản tiết kiệm của Trung Quốc. Nó thậm chí còn có thể phản tác dụng khi gắn hệ thống tài chính của Trung Quốc với sự bất ổn tài chính của các quốc gia khác.

Hệ thống đồng tiền chung châu Âu

Sự thống nhất mạnh mẽ hơn của EU cũng sẽ tạo ra những cơ hội mới cho tăng trưởng. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Đức Olaf Scholz, hầu hết mọi thành viên EU đã cam kết trong nhiều năm tới sẽ tăng chi tiêu quốc phòng, cũng như tăng đầu tư công để giảm nhanh sự phụ thuộc của lục địa này vào nhiên liệu hóa thạch của Nga. Cả hai khoản đầu tư này sẽ là bước đi dài hướng tới chấm dứt việc châu Âu ‘hưởng ké’ Mỹ và Trung Quốc để tăng trưởng; tạo cho nền kinh tế toàn cầu một động cơ khác để giúp cân bằng những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh, giúp thế giới ổn định trước những cuộc suy thoái. Chúng cũng sẽ ngăn các nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong khối gia tăng nợ nước ngoài, như đã xảy ra khi Đức và các nền kinh tế châu Âu có thặng dư ngân sách xuất khẩu sản phẩm nhưng lại không tiêu dùng nhiều.

Điều đó không có nghĩa là sẽ không có gì thay đổi về mặt tài chính. Khi chia rẽ kinh tế càng trở nên sâu sắc bởi chia rẽ quyền lực cứng, các chính phủ sẽ càng gắn hệ thống tài chính của họ với nhà bảo trợ quân sự chính của họ. Tỷ giá hối đoái cố định có xu hướng theo sau các liên minh quân sự (như tôi đã lập luận hồi năm 2008). Thế giới đã chứng kiến điều này ở khắp Châu Phi, Mỹ Latinh, và Nam Á trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khi các chính phủ thay đổi đồng tiền mục tiêu trong tỷ giá hối đoái cố định của mình sau khi quyết định liên kết với Liên Xô hay Mỹ. Dù điều đó có nghĩa là, trên thực tế, sẽ có một số nước gia nhập hoặc thoát khỏi khu vực đồng đô la, nhưng nó không tạo ra một loại tiền tệ thay thế thực sự hấp dẫn.

 

Toàn cầu hóa toàn cảnh

Việc ngăn chặn sự xói mòn của toàn cầu hóa vốn đã khó, và hành động xâm lược Ukraine của Nga khiến nó càng khó hơn. Trong lúc các chính trị gia ở Mỹ và các nước khác còn đang thêu dệt những câu chuyện sai lệch rằng mở cửa kinh tế có hại cho người lao động, thì cuộc xâm lược của Nga và các lệnh trừng phạt đã đẩy Trung Quốc và Mỹ ra xa nhau hơn.

Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách không phải là đã hết cách. Các biện pháp trừng phạt tài chính đối với Nga rất hiệu quả, bởi vì chúng được áp đặt bởi một liên minh mạnh mẽ gồm các nền dân chủ có thu nhập cao hơn. Nếu Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Mỹ, Liên minh Châu Âu, và các nền kinh tế thị trường quan trọng khác có thể vận dụng chính những nguồn lực mà họ đã sử dụng để trừng phạt Nga vào việc giúp đỡ nền kinh tế, thì họ hoàn toàn có thể ngăn chặn xói mòn – có thể bằng cách khuyến khích Trung Quốc tham gia kết nối.

Để làm được như vậy, giới quan chức phải theo đuổi một loạt các chính sách. Họ có thể bắt đầu bằng cách tạo ra một thị trường chung giữa các nền dân chủ, rộng và sâu nhất hết mức có thể – gồm hàng hóa, dịch vụ, và thậm chí cả cơ hội lao động. Họ phải tạo ra các tiêu chuẩn chung để sàng lọc đầu tư tư nhân xuyên biên giới, vì lý do an ninh quốc gia và nhân quyền. Họ nên tạo ra một sân chơi tương đối công bằng giữa các đồng minh để có thể thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, điều này sẽ xoa dịu các tác dụng phụ tồi tệ nhất của chủ nghĩa dân tộc về kinh tế: tham nhũng, sự cố thủ của các quan chức đương nhiệm, và lãng phí. Các nhà hoạch định chính sách cũng phải thiết lập một mặt trận đầu tư công bền vững, kéo dài nhiều năm trong liên minh phương Tây, nhằm giảm bớt sự mất cân bằng giữa các nền kinh tế, và nâng cao lợi nhuận tổng thể từ đầu tư.

Các nền dân chủ trên thế giới không thể đảo ngược mọi sự chia rẽ gây xói mòn nền kinh tế toàn cầu xảy ra do hành động xâm lược của Nga và sự ủng hộ ngầm của Trung Quốc. Họ không nên muốn làm như vậy, bởi một số hình thức bạo lực cần phải được đối phó bằng sự cô lập về kinh tế. Nhưng họ vẫn có thể tìm cách bù đắp cho các tổn thất này và giúp hành tinh trở nên ổn định hơn trong quá trình đó.

 

Trong ba tuần qua, nền kinh tế Nga đã phải liêu xiêu vì các lệnh trừng phạt. Ngay sau khi Điện Kremlin xâm lược Ukraine, phương Tây bắt đầu đóng băng tài sản của những cá nhân giàu có thân cận với Tổng thống Nga Vladimir Putin, cấm các chuyến bay của Nga vào không phận phương Tây, và hạn chế khả năng tiếp cận công nghệ nước ngoài của nền kinh tế Nga. Đáng chú ý nhất, Mỹ và các đồng minh đã phong tỏa tài sản dự trữ của Ngân hàng Trung ương Nga, loại nước này khỏi không chỉ hệ thống thanh toán tài chính SWIFT, mà còn cả các thể chế cơ bản của tài chính quốc tế, bao gồm tất cả các ngân hàng nước ngoài và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Kết quả là, giá trị của đồng rúp sụt giảm, tình trạng thiếu hụt gia tăng khắp các bộ phận của nền kinh tế Nga, và chính phủ nước này dường như sắp vỡ nợ trái phiếu ngoại tệ. Dư luận – và nỗi sợ bị ảnh hưởng lây từ lệnh trừng phạt– đã buộc các doanh nghiệp phương Tây ồ ạt rời Nga. Chẳng bao lâu nữa, Nga sẽ không thể sản xuất các nhu yếu phẩm, cho quốc phòng lẫn tiêu dùng, vì nước này thiếu các thành phần đầu vào thiết yếu.

Trong 20 năm qua, có hai xu hướng đã và đang làm xói mòn toàn cầu hóa, trên hành trình được cho là không ngừng nghỉ của nó. Thứ nhất, những người theo chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa dân tộc đã dựng lên các rào cản đối với thương mại tự do, đầu tư, nhập cư, và sự lan truyền các ý tưởng – đặc biệt là ở Mỹ. Thứ hai, việc Bắc Kinh thách thức hệ thống kinh tế quốc tế dựa trên luật lệ và các thỏa thuận an ninh lâu đời ở châu Á đã khuyến khích phương Tây dựng lên nhiều rào cản ngăn không cho kinh tế Trung Quốc hội nhập. Cuộc xâm lược của Nga và các lệnh trừng phạt sau đó sẽ làm cho tình trạng xói mòn này thậm chí còn tồi tệ hơn.

Cuối cùng, thiệt hại do các biện pháp trừng phạt lên nền kinh tế Nga, và các chi phí đáng kể cho Trung Âu nếu bị Nga đáp trả bằng cách cắt đứt quyền tiếp cận khí đốt tự nhiên và dầu mỏ của nước này, có thể khiến các chính phủ chuyển sang theo đuổi chính sách tự lực cánh sinh, và chủ động giảm kết nối với nền kinh tế toàn cầu. Trớ trêu thay, đây là hành động tự chuốc lấy thất bại. Chính sự xuống dốc nhanh chóng của nền kinh tế Nga hiện nay đã cho thấy tình cảnh khó khăn của các quốc gia nếu không có sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, ngay cả khi họ đã cố gắng giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của mình. Ngoài ra, những nỗ lực của Nga nhằm trở nên độc lập về kinh tế trên thực tế lại khiến nước này có nhiều khả năng bị trừng phạt hơn, vì phương Tây không còn nhiều thứ để mất nếu áp đặt các lệnh trừng phạt. Nhưng điều đó sẽ không ngăn được nhiều chính phủ cố gắng rút lui về những góc riêng, tìm cách tự bảo vệ mình bằng cách thoái lui khỏi nền kinh tế toàn cầu.

Tất nhiên, từ nhiều năm qua, giới chuyên gia đã kêu gào về sự chia tách này, và các quốc gia nhỏ hơn – những nước đang cố gắng tự cô lập mình – sẽ không thể thành công. Nhưng giờ đây, có vẻ như nền kinh tế thế giới thực sự sẽ chia thành hai khối – một khối xoay quanh Trung Quốc và khối còn lại xoay quanh Mỹ, với phần lớn nhưng không phải toàn bộ Liên minh Châu Âu chọn đứng về phía Mỹ – mỗi khối đều cố gắng tự tách mình ra khỏi khối bên kia và sau đó giảm bớt ảnh hưởng của khối đó. Hậu quả kinh tế đối với thế giới sẽ vô cùng to lớn, và các nhà hoạch định chính sách cần phải nhận ra và tìm cách bù đắp lại các xu hướng đó càng nhiều càng tốt.

 

Sụp đổ nhanh Toàn cầu hóa

Cuộc xâm lược Ukraine và các lệnh trừng phạt sẽ không dẫn đến những thay đổi tài chính lớn đối với nền kinh tế toàn cầu. Nhưng chúng sẽ đẩy nhanh tốc độ xói mòn của toàn cầu hóa – vốn đang diễn ra – một quá trình sẽ có những tác động rộng khắp. Giữa bối cảnh kết nối kinh tế lỏng lẻo hơn, thế giới sẽ chứng kiến xu hướng tăng trưởng thấp hơn và đổi mới ít hơn. Các công ty và ngành công nghiệp đang hiện diện trong nước sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc yêu cầu các biện pháp bảo hộ đặc biệt. Nhìn chung, lợi nhuận thực tế từ đầu tư của các hộ gia đình và các tập đoàn sẽ giảm xuống.

Để hiểu lý do tại sao lại như vậy, hãy xem xét điều có thể xảy ra với chuỗi cung ứng. Hiện tại, hầu hết các công ty công nghiệp và nhà bán lẻ đều có nguồn cung cấp của từng nguyên liệu đầu vào hoặc từng bước quan trọng trong quy trình sản xuất đến từ một hoặc một số nơi riêng biệt nhất định. Có một logic kinh tế mạnh mẽ dẫn đến việc thiết lập chuỗi cung ứng toàn cầu theo cách này, với tương đối ít sự dư thừa: phương pháp này không chỉ giúp tiết kiệm chi phí bằng cách khuyến khích các công ty và nhà máy chuyên môn hóa, nó còn giúp tăng quy mô sản xuất và mang lại lợi thế về tiếp thị và thông tin địa phương. Tuy nhiên, xét đến thực tế địa chính trị và tình hình đại dịch hiện nay, các chuỗi cung ứng toàn cầu này có thể không còn đáng để các nước phải chịu rủi ro, nếu chúng dựa vào các điểm nghẽn cụ thể, nhất là ở các quốc gia bất ổn chính trị hoặc không đáng tin cậy. Các công ty đa quốc gia, với sự khuyến khích từ chính phủ, sẽ bảo vệ bản thân bằng cách xây dựng các chuỗi cung ứng dự phòng ở những địa điểm an toàn hơn. Giống như bất kỳ hình thức bảo hiểm nào khác, hành động này bảo vệ công ty khỏi một số rủi ro bất lợi, nhưng nó là một loại chi phí trực tiếp, không mang lại lợi nhuận kinh tế ngay lập tức.

Trong khi đó, nếu các công ty của Trung Quốc và Mỹ không còn phải đối mặt với sự cạnh tranh lẫn nhau (hoặc cạnh tranh từ các công ty bên ngoài khối kinh tế của chúng), nhiều khả năng chúng sẽ hoạt động kém hiệu quả hơn, và người tiêu dùng sẽ chẳng còn nhận được các sản phẩm đa dạng và đáng tin cậy nhiều như hiện tại. Khi người tiêu dùng là chính phủ, các doanh nghiệp được bảo hộ trong nước thậm chí càng dễ rơi vào lãng phí và gian lận hơn, vì hợp đồng chính phủ thường có ít cạnh tranh hơn. Chỉ cần thêm vào lý lẽ của chủ nghĩa dân tộc, và nỗi sợ hãi về các mối đe dọa an ninh quốc gia, thế là các công ty như vậy sẽ dễ dàng khoác lên tấm áo lòng yêu nước và tìm đến các ngân hàng, thừa biết rằng chúng quá lớn để thất bại về mặt chính trị. Việc các nền kinh tế đóng cửa dễ xảy ra tham nhũng hơn cũng là có lý do.

Các nhà phân tích đã có thể thấy điều này xuất hiện trong các cam kết ‘yêu nước’ của Tổng thống Joe Biden và cựu Tổng thống Donald Trump về sản xuất “thuê trong” (onshoring manufacturing) – tức tái định vị các chuỗi cung ứng sản xuất hàng hóa của Mỹ, để chúng diễn ra ngay tại đất Mỹ. Họ đang sử dụng an ninh quốc gia và niềm tự hào dân tộc để biện minh cho các chính sách làm thiệt hại cho an ninh quốc phòng lẫn hơn 85% công nhân Mỹ không làm việc trong ngành công nghiệp nặng. Việc tôn sùng sản xuất trong nước thay vì thúc đẩy trao đổi dịch vụ và xây dựng mạng lưới thương mại xuyên biên giới là điều đặc biệt trớ trêu, vì chính những lĩnh vực như dịch vụ mới mang lại lợi thế cho phương Tây so với Nga trong việc thực hiện hiệu quả các biện pháp trừng phạt, và cũng là điều đã ngăn cản các doanh nghiệp Trung Quốc cứu Nga.

 

Kết nối tài chính

Trong tương lai, Liên minh châu Âu hoặc khu vực đồng euro có thể phát hành thêm trái phiếu chung châu Âu, và điều này sẽ giúp ích nhiều hơn cho nền kinh tế toàn cầu. Cuộc xâm lược của Nga đã củng cố thực tế rằng chúng ta đang sống trong một thế giới có lợi nhuận thấp, và nhiều nhà đầu tư đề cao sự an toàn. Bằng cách tạo ra nhiều tài sản an toàn hơn cho họ, EU và khu vực đồng euro có thể thu về nhiều khoản tiết kiệm tránh rủi ro, cải thiện sự ổn định tài chính.

Đặc biệt, những sáng kiến này sẽ giúp ích cho chính khu vực đồng euro. Một trong những nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khủng hoảng đồng euro một thập niên trước là sự mất cân bằng giữa các nền kinh tế đồng euro do chính sách thắt lưng buộc bụng của Đức. Nếu Đức tăng cầu nội địa, các thành viên Nam Âu của khu vực đồng euro sẽ có thể xử lý một số khoản nợ của họ nhờ tăng xuất khẩu, thay vì phải cắt giảm tiền lương và nhập khẩu để có khả năng trả nợ. Điều này sẽ củng cố khả năng tồn tại lâu dài của đồng euro, cũng như tăng sức hấp dẫn của nó đối với các thành viên mới, tiềm năng ở Đông Âu và các nhà quản lý tiền dự trữ trên toàn thế giới. Một đồng euro ít phải chịu những căng thẳng và lo lắng nội bộ cũng sẽ có giá trị cao hơn, ổn định hơn, do đó sẽ làm giảm căng thẳng thương mại với Mỹ.

 

Sự thật  

Thật không may, cuộc xâm lược của Nga lại không mang lại những tác động tích cực đối với các nước đang phát triển. Việc tăng giá thực phẩm và năng lượng đã và đang gây tổn hại cho công dân của các quốc gia nghèo hơn, và tác động kinh tế của xói mòn toàn cầu hóa sẽ còn tồi tệ hơn nữa. Nếu các quốc gia có thu nhập thấp hơn buộc phải chọn phe khi quyết định nơi mà họ sẽ nhận viện trợ và đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì cơ hội cho khu vực tư nhân của họ sẽ càng thu hẹp. Các công ty ở các quốc gia này sẽ càng phụ thuộc nhiều hơn vào những ‘người gác cổng’ chính phủ trong và ngoài nước. Trong
trường hợp Mỹ cùng các quốc gia khác tăng cường sử dụng các biện pháp trừng phạt, các tập đoàn lớn sẽ ít khi đầu tư vào các nền kinh tế này. Các công ty đa quốc gia muốn né tránh chỉ trích từ Mỹ, và vì vậy họ sẽ từ bỏ việc đầu tư vào những nơi mà họ cho là không minh bạch.

Điều đáng buồn nhất là những hành động này xuất hiện ngay sau phản ứng bất bình đẳng của thế giới đối với COVID-19, khi các quốc gia có thu nhập cao đã không cung cấp đủ vắc xin và vật tư y tế cho các quốc gia đang phát triển. Sự xem thường về mặt chính trị đối với phúc lợi của các nhóm dân cư có thu nhập thấp trên toàn cầu đã làm thay đổi các điều kiện kinh tế trên thực tế. Đến lượt mình, các thay đổi đó lại cung cấp một lý do khiến khu vực tư nhân không đầu tư vào các nền kinh tế có thu nhập thấp ấy. Cách duy nhất để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này là thông qua đầu tư công và đối xử công bằng. Tuy nhiên, sự chia rẽ giữa các nền kinh tế lớn nhiều khả năng làm cho những khoản đầu tư kiểu này vào các nước đang phát triển là không đủ, không đáng tin cậy, và bị giải ngân tùy tiện.

Giúp đỡ các nền kinh tế nghèo không phải là mục tiêu phát triển dài hạn duy nhất đối mặt với rủi ro sau cuộc xâm lược của Nga. Để tồn tại, các xã hội trên toàn thế giới sẽ cần giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, nhưng vai trò then chốt của Nga và Ukraine trong chuỗi cung cấp năng lượng toàn cầu đã tạo ra những lực lượng mâu thuẫn với nhau, khiến quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch trở nên khó khăn hơn. Đồng thời, các chính trị gia phương Tây đang vừa kêu gọi tránh xa khí thải gây hiệu ứng nhà kính, vừa ủng hộ việc tăng cường khai thác nhiên liệu hóa thạch bên ngoài nước Nga. Các quốc gia muốn ngăn chặn tình trạng tăng giá, cắt giảm thuế năng lượng, và trợ cấp cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng vì giá khí đốt cao hơn, nhưng họ cũng muốn khuyến khích mở rộng sản xuất năng lượng xanh và giảm tiêu thụ năng lượng, vốn là những biện pháp đòi hỏi chi phí cao hơn. Sự đánh đổi còn vượt ra ngoài vấn đề biến đổi khí hậu. Các nền dân chủ muốn xây dựng các liên minh xung quanh các giá trị tự do và thị trường tự do hơn, nhưng để cắt giảm chi phí năng lượng, họ sẽ tìm đến các chính phủ chuyên chế như Ả Rập Xê-út và Venezuela, đề nghị chính danh hóa các chế độ này để đổi lấy nguồn cung dầu lớn hơn.

Nền tảng của tất cả những điều này là một sự thật không mong muốn: để làm chậm quá trình tăng nhiệt độ toàn cầu, thế giới cần các hành động quốc tế tập thể, với sự tham gia của cả Trung Quốc. Liên minh các nền dân chủ không thể làm điều đó một mình. Chính phủ Trung Quốc và Mỹ thi thoảng vẫn đạt được tiến bộ chung về các sáng kiến khí hậu, ngay cả khi họ đang xung đột về các vấn đề khác, và cả Chủ tịch Tập Cận Bình lẫn Tổng thống Joe Biden đều thể hiện mình muốn làm điều đó một lần nữa. Nhưng tình hình sẽ trở nên khó khăn hơn khi hai nước rút về với khối kinh tế riêng của mình. Trong khi đó, vì xói mòn toàn cầu hóa làm giảm tốc độ đổi mới, do hạn chế hợp tác nghiên cứu, các nhà khoa học cũng khó lòng tìm được một cỗ máy thần kỳ có thể cứu hành tinh.

 

Minh Phạm


Tham khảo:

1.- Adam Posen, “The End of Globalization?“, Foreign Affairs, 17/03/2022.

2.- Mary Kaldore, “New and Old Wars: Organized Violence in a Global Era”

 

Công đoàn ngành Xây dựng Hà Nội hiện có 123 công đoàn cơ sở (CĐCS) hoạt động trên khắp địa bàn Hà Nội với tổng số 21.534 CNVCLĐ, trong đó đoàn viên Công đoàn là 20.426. Chủ yếu là CĐCS khu vực ngoài Nhà nước (97 CĐCS).

Bài viết hay




Chủ tịch LĐLĐ TP.Hà Nội Nguyễn Thị Tuyến thăm và trao quà cho công nhân môi trường Hà Nội.


Từ đầu năm đến nay, ngành Xây dựng tuy có những thuận lợi, song vẫn còn nhiều khó khăn. Thị trường BĐS đã có dấu hiệu khởi sắc, kinh phí chi cho các dịch vụ về hạ tầng đô thị của Thủ đô tiếp tục bị cắt giảm thêm 10%, các doanh nghiệp hạ tầng đô thị trong giai đọan cổ phần hóa, phải đấu thầu cạnh tranh và bắt buộc đổi mới công nghệ; các doanh nghiệp đầu tư xây lắp, sản xuất VLXD, tư vấn thiết kế vẫn còn ít việc; các đơn vị sự nghiệp là các Ban QLDA đang sắp xếp, sáp nhập sẽ chuyển về UBND Thành phố quản lý. Thanh tra Sở Xây dựng HN bàn giao công việc về các quận, huyện, thị xã. An toàn vệ sinh thực phẩm, cháy nổ, vệ sinh môi trường, dịch bệnh, tai nạn giao thông, tai nạn lao động,... vẫn là những vấn đề bức xúc, nguy cơ tác động đến tư tưởng của CNVCLĐ và ảnh hưởng không nhỏ tới việc làm, thu nhập và đời sống của CNVCLĐ trong ngành.


Được biết, trước những khó khăn nói trên và những thách thức khi Việt Nam tham gia Hiệp định Thương mại tự do Châu Á - Thái Bình Dương (TPP) đối với người lao động và tổ chức công đoàn; Ban thường vụ Công đoàn Ngành đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là phải làm tốt công tác phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS, nâng cao chất lượng hoạt động, tập trung chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cán bộ đoàn viên, tập trung đào tạo cán bộ công đoàn đáp ứng tình hình nhiệm vụ hiện nay, đồng thời phải đồng hành cùng thủ trưởng cơ quan, doanh nghiệp tổ chức tốt điều kiện sống và làm việc cho công nhân lao động; xây dựng được mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong các cơ quan doanh nghiệp.




Chia sẻ với LĐTĐ, ông Phan Văn Bảo - Chủ tịch Công đoàn ngành Xây dựng HN - cho biết, từ nhiệm vụ trọng tâm, Công đoàn Ngành đề ra nhiều giải pháp thực hiện hiệu quả trong thời gian qua. Ví như việc tham gia thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; chỉ đạo tổ chức tốt Hội nghị CBCC, Hội nghị NLĐ, tham gia xây dựng định mức lao động, thang bảng lương của doanh nghiệp, tổ chức tốt các cuộc đối thoại giữa người sử dụng lao động với người lao động, thương lượng ký kết Thỏa ước lao động tập thể có lợi cho người lao động; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn pháp luật, vận động, hướng dẫn các cơ sở tạo điều kiện cho CNVCLĐ học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, các Công ty Nước sạch Hà Nội, Thoát nước Hà Nội.... duy trì tổ chức hội thi thợ giỏi hằng năm; tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động như: "Hát cho công nhân nghe - nghe công nhân hát", liên hoan văn nghệ, hội khỏe, trao trợ cấp khó khăn, hỗ trợ kinh phí sửa chữa, xây dựng nhà ở "Mái ấm Công đoàn"; phối hợp cùng Công đoàn ngành Xây dựng Hải Phòng, Quảng Ninh tổ chức Hội thảo "Công đoàn đồng hành cùng doanh nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế TPP". Đặc biệt, mới đây, Công đoàn ngành Xây dựng Hà Nội còn tổ chức thành công hội thi cán bộ công đoàn giỏi, tạo động lực thúc đẩy người lao động gia nhập tổ chức Công đoàn.



“Thông qua các hội thi và các hoạt động thiết thực, chúng tôi muốn góp phần đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công đoàn, nâng cao trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn của cán bộ công đoàn, thúc đẩy xây dựng tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và để tổ chức công đoàn có vị thế hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế ” - ông Phan Văn Bảo cho biết.

Tâm – Thế (Báo Lao động Thủ đô)
NDĐT - Sáng 16-6, tại TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Ủy ban Đối ngoại Quốc hội phối hợp Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tại Việt Nam tổ chức Hội nghị Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tác động đối với Việt Nam.

>> Tham khảo: 
Dự hội nghị, có đồng chí Phùng Quốc Hiển, Phó Chủ tịch Quốc hội; Nguyễn Hồng Lĩnh, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Trần Văn Hằng, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội; cùng đại diện lãnh đạo nhiều bộ, ngành T.Ư; Tổng lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP Hồ Chí Minh và một số cơ quan, tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Theo kế hoạch, trong bảy phiên thảo luận tại hội nghị, các đại biểu sẽ được nghe các chuyên gia giới thiệu về một số lĩnh vực quan trọng của TPP và tác động đối với Việt Nam, trong đó có các vấn đề về lao động, quy tắc xuất xứ và dệt may, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật trong thương mại và các biện pháp kiểm dịch động thực vật...
Các đại biểu tham dự hội nghị cũng sẽ được nghe lãnh đạo Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, các bộ, ngành T.Ư thông báo về các yêu cầu và giải pháp về mặt thể chế, pháp luật khi Việt Nam tham gia Hiệp định TPP, đồng thời khuyến nghị sự chuẩn bị của các doanh nghiệp nhằm thực thi hiệp định này.
Hội nghị dự kiến sẽ làm việc đến hết ngày 18-6.
nhandan.com.vn
TIN, ẢNH: ANH TUẤN, NGUYỄN NAM
Hội nhập TPP mang lạ sự minh bạch và tiến bộ với nguyên tắc chính của mua sắm chính phủ trong TPP là: không phân biệt đối xử giữa các nhà thầu trong TPP với nhau.
Vào ngày 14/6/2016, tại Hà Nội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tổ chức hội thảo Cam kết về mua sắm Chính phủ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương.

>> Tham khảo thêm: 
[​IMG]
Triển khai cam kết mua sắm chính phủ trong Hiệp định TPP

Cam kết về mua sắm Chính phủ trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương là một trong những nội dung khó trong quá trình đàm phán hiệp định này. Các nguyên tắc chính của mua sắm chính phủ trong TPP, đó là: không phân biệt đối xử giữa các nhà thầu trong TPP với nhau; không được ưu đãi hàng hóa, dịch vụ hay nhà thầu nội và khuyến khích đấu thầu qua mạng.
Các chuyên gia cho rằng, việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương sẽ có tác động lớn đối với thị trường mua sắm chính phủ tại Việt Nam. Trong đó, đáng chú ý là Việt Nam đã đàm phán được lộ trình tương đối dài, mở cửa từ từ, bắt đầu từ những gói thầu có giá trị rất lớn, có thời gian quá độ để ưu tiên hàng hóa, nhà thầu trong nước.
Tuy nhiên, về lâu dài, khi thời kỳ chuyển đổi đã qua, nếu nhà thầu Việt Nam vẫn ì ạch, không chịu vươn lên, vẫn chờ đợi vào “quan hệ”, “dựa dẫm” thì thách thức là rất lớn. Bên cạnh đó, TPP cũng yêu cầu minh bạch hóa thông tin đấu thầu, minh bạch hóa các thủ tục ở tất cả các khâu và có quy định để bảo đảm liêm chính và xem xét khiếu nại.
Ông Lê Văn Tăng, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý Đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh: "Khó khăn không phải là kỹ thuật mà cái khó nhất mà chúng ta phải vượt qua chính mình bởi nếu áp dụng cái này thì tính minh bạch rất cao. Tôi cho rằng đây là khó khăn nhất, nhưng cũng lại là ưu thế nhất, vì nếu chúng ta vượt được qua thì giá trị của TPP mới thực sự mang đến cho Việt Nam. Sẽ rất là vất vả vì các nhà thầu buộc phải cạnh tranh với nhà thầu ngoại nhưng chúng ta được sự minh bạch, và minh bạch, công khai sẽ đem lại nhiều cái lợi. Đấy là điều người dân Việt Nam đang mong đợi và nếu chúng ta làm được thì chúng ta mới thành công."
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam có cam kết về mua sắm Chính phủ, do đó, việc tiếp cận thị trường mua sắm Chính phủ các nước TPP của nhà thầu Việt Nam gặp nhiều thách thức do năng lực, kinh nghiệm còn hạn chế.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về triển khai cam kết mua sắm Chính phủ, ông Jean Heilman Grier, chuyên gia tư vấn quốc tế cho rằng, khi tham gia vào TPP, Việt Nam cần nêu ra những yêu cầu và nguyên tắc chung; các quy định và hướng dẫn cụ thể để đưa vào các văn bản dưới luật; đồng thời, cần chi tiết hóa các yêu cầu về đấu thầu, bao gồm các cam kết quốc tế về đấu thầu, áp dụng trên cả nước.
Ông Grier khuyến nghị: "Việt Nam cần sửa đổi Nghị định 63 về lựa chọn nhà thầu; tập trung vào các chương trình ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; thành lập cơ quan giải quyết kiến nghị độc lập, có thể trực thuộc Văn phòng Chính phủ; đồng thời, phổ biến rộng rãi cam kết mua sắm Chính phủ trong TPP. Bên cạnh đó, cũng cần phải tăng cường đào tạo cho cán bộ làm công tác đấu thầu, xây dựng Bộ quy tắc ứng xử cho cán bộ làm đấu thầu cũng như quy định chặt chẽ hơn nhằm tránh mâu thuẫn lợi ích và phòng chống tham nhũng".
Nguồn: vov.vn
Khi được hỏi TPP là gì nhiều bạn trẻ tỏ ra khá bỡ ngỡ, phần khác lại nhầm tưởng đây là tên viết tắt của một tựa game hay một từ lóng nào đó… điều này cho thấy còn khá nhiều người chưa quan tâm hoặc không có điều kiện tiếp xúc với những thông tin về các tổ chức kinh tế quan trọng mà Việt Nam là thành viên. Bài viết này Thuatngu.org sẽ đưa ra một số thông tin giúp giải đáp câu hỏi TPP là gì, TPP là tổ chức gì, TPP viết tắt của từ gì, TPP gồm những nước nào… mà nhiều người đang đặt ra.

TPP là gì | TPP viết tắt của từ gì | Tổ chức TPP làm gì
TPP là gì | TPP viết tắt của từ gì | Tổ chức TPP làm gì

Được thành lập bởi 4 nước từ tháng 6 năm 2005 khi ra đời TPP còn được gọi là P4, cho tới nay số lượng thành viên đã tăng lên gấp nhiều lần trong đó có cả Việt nam, TPP tạo ra sân chơi chung cho các quốc gia trong hợp tác và phát triển kinh tế. Việc hiểu rõ TPP là gì, TPP là tổ chức gì, TPP viết tắt của từ gì, TPP gồm những nước nào… là điều cần thiết đối với mỗi công dân đặc biệt là giới trẻ – những người tài giỏi có nhiều đam mê cống hiến và xây dựng đất nước.
[TPP là gì] TPP là tên viết tắt của Trans-Pacific Partnership Agreement khi được dịch ra tiếng Việt cụm từ Trans-Pacific Partnership Agreement có nghĩa là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. TPP là một hiệp định thỏa thuận thương mại tự do giữa các nước thành viên với mục đích chung hướng tới hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện TPP có 12 nước thành viên.
Được sáng lập bởi 4 nước là Brunei, Chile, New Zealand và Singapore cho tới nay TPP đã có 12 nước thành viên bao gồm: Australia, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Việt Nam, Mỹ và Nhật Bản. Để bạn đọc dễ hình dung TPP là gì chúng tôi sẽ tóm tắt những ý chính.
TÓM TẮT KHÁI NIỆM TPP LÀ GÌ
– TPP là tên viết tắt của Trans-Pacific Partnership Agreement
– Nghĩa là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
– TPP là một hiệp định thương mại tự do giữa các nước thành viên
– Hiện TPP có 12 nước thành viên:
+ Brunei, Chile, New Zealand và Singapore
+ Australia, Malaysia, Mexico, Canada
+ Peru, Việt Nam, Mỹ, Nhật Bản
Việt Nam đàm phán ra nhập TPP vào tháng 11 năm 2008 và đã được ký kết ra nhập vào ngày 4 tháng 02 năm 2016 trở thành 1 trong 12 nước thành viên trong TPP hiện nay. Ngoài 12 nước thành viên nêu trên còn có một số nước như: Colombia, Philippines, Thái Lan, Đài Loan và Hàn Quốc mong muốn ngỏ ý tham gia.

TPP là gì
TPP là tên viết tắt của Trans-Pacific Partnership Agreement

Thời gian trước TPP có tên tiếng Anh là Pacific Three Closer Economic Partnership (hay còn được viết tắt là P3-CEP) sau đó được thủ tướng New Zealand Helen Clark , thủ tướng Singapore Goh Chok Tong, tổng thống Chile Ricardo Lagos đưa ra bản bạc và thảo luận tại một cuộc họp của các nhà lãnh đạo của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á  – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra tại Los Cabos, Mexico. Với sự tham gia nhanh chóng của Brunei các vòng đàm phán được ký kết vào tháng 04 năm 2005. Sau khi kết thúc đàm phán, hiệp định quyết định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương (viết tắt là TPSEP hoặc P4).
Tới đây chắc hẳn bạn đọc đã hình dung được quá trình hình thành TPP là gì rồi, chắc hẳn các bạn cũng đã có những liên hệ với WTO – Tổ chức Thương mại Thế giới bởi WTO cũng trải qua nhiều lần “thay tên đổi họ” như TPP; trong bài viết WTO là gì các bạn đã được biết quá trình hình thành và phát triển của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này.

TPP là gì, TPP là tổ chức gì, TPP viết tắt của từ gì, TPP gồm những nước nào, 12 nước TPP, TPP có bao nhiêu nước thành viên, Hiệp định xuyên Thái Bình Dương là gì, Các nước tham gia TPP, TPP viết tắt của từ gì, TPP nghĩa là gì, Khái niệm TPP, Định nghĩa TPP, Tổ chức TPP làm gì
TPP là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương

Trở lại với TPP. Mục tiêu của TPP chính là xóa bỏ các rào cản trong phát triển kinh tế tiêu biểu là các loại thuế hàng hóa, thuế dịch vụ, thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Để đạt được điều này TPP đã cùng nhau xây dựng và thống nhất nhiều luật lệ và các quy tắc đối xử chung giữa các nước thành viên trong các vấn đề liên quan như: sở hữu trí tuệ, bản quyền, chất lượng lương thực – thực phẩm, an toàn lao động…
Cùng với TPP Việt Nam cũng đã ra nhập APEC, bạn đọc chưa biết thông tin về APEC có thể tham khảo bài viết APEC là gì mà chúng tôi thực hiện trước đó. Hiện APEC có 21 nước thành viên chiếm 40% dân số trên hành tinh và 44% thương mại thế giới.
Khi đề cập tới các lĩnh vực, nhóm ngành trong hiệp định TTP chúng ta sẽ thấy được sự đa dạng của tổ chức này đối với các ngành nghề cụ thể chúng bao gồm: Thương mại điện tử, Dịch vụ xuyên biên giới, Thuế, Môi trường, Dịch vụ tài chính, Sở hữu trí tuệ, Chi tiêu công của chính phủ, Đầu tư, Lao động, Pháp luật, Giải quyết tranh chấp, Nguồn gốc – xuất xứ hàng hóa, Kiểm dịch thực phẩm, Viễn thông, Dệt may, Bồi thường thiệt hại thương mại ngoài ra các Doanh nhân sẽ được đơn giản hóa thủ tục nhập cảnh vào các nước thành viên trong TPP.

TPP là gì, TPP là tổ chức gì, TPP viết tắt của từ gì, TPP gồm những nước nào, 12 nước TPP, TPP có bao nhiêu nước thành viên, Hiệp định xuyên Thái Bình Dương là gì, Các nước tham gia TPP, TPP viết tắt của từ gì, TPP nghĩa là gì, Khái niệm TPP, Định nghĩa TPP, Tổ chức TPP làm gì
TPP là gì, TPP là tổ chức gì, TPP viết tắt của từ gì, TPP gồm những nước nào

Lợi ích chung của các nước thành viên trong TPP là quá trình xin visa nhập cảnh vào các quốc gia thành viên dễ dàng, công ăn việc làm dồi dào hơn, đất nước được trang hoàng sạch đẹp nhờ vào các yêu cầu chung về môi trường, xuất khẩu sản phẩm dịch vụ “xuyên biên giới” qua các nước thành viên, được hỗ trợ phát triển trình độ lao động – khoa học – kỹ nghệ, người dân có điều kiện tiếp xúc với sản phẩm chất lượng cao…
Nguồn: thuatngu.org

TPP - Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương đã được 12 nước thành viên chính thức ký kết vào ngày 4-2-2016 và sẽ có hiệu lực sau 2 năm. Đây là một mô hình mới về hợp tác kinh tế, vừa có tính chất toàn diện, vừa có mức độ cam kết sâu và rộng. 



Đàm phán TPP chính là đàm phán sâu về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và các rào cản thương mại. Kể từ số báo này, ĐTTC giới thiệu loạt bài viết của luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch Hãng luật LP Group, về chủ đề này để bạn đọc, nhà đầu tư và DN có cái nhìn rõ hơn.

Việc tham gia TPP sẽ mở ra cho Việt Nam, các DN trong nước cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt ra một loạt thách thức mới cho DN Việt. Có thể nói, việc nhận thức rõ được cơ hội và thách thức mà TPP mang đến và tận dụng các cơ hội để hạn chế và vượt qua thử thách sẽ thúc đẩy các DN trong nước nhập cuộc một cách mạnh mẽ, sâu rộng và công bằng hơn.

Những cơ hội cho doanh nghiệp Việt trong thời kỳ hội nhập TPP

Theo Vietnam Report, 91% DN đánh giá tích cực về thay đổi liên quan đến chính sách thuế sau khi Việt Nam ký kết TPP. Đây cũng chính một trong muôn vàn cơ hội TPP gián tiếp mang lại cho các DN Việt Nam.

Thứ nhất, tham gia vào TPP sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho xuất khẩu của các DN Việt Nam. Trong TPP có 3 nước áp dụng thuế xuất khẩu là Việt Nam, Malaysia, Canada và 3 nước đều cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu, ngoại trừ các nhóm mặt hàng được bảo lưu. Việt Nam hiện tại đã cam kết xóa bỏ đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang có áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5 đến 15 năm sau khi TPP có hiệu lực. Riêng về thuế nhập khẩu, Việt Nam đã cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế trong Hiệp định TPP, trong đó có 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực.

Thứ hai, TPP có độ mở, độ tự do hóa cao nhất so với các hiệp định đang có, từ khắp các lĩnh vực: không chỉ là về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ mà còn cả về thương mại điện tử, lao động. Độ mở này sẽ tạo ra cơ hội để các DN Việt Nam tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư, thu hút nhiều dự án lớn từ các tập đoàn đa quốc gia.

Thứ ba, TPP giúp tạo ra nhiều việc làm, từ đó thu hút một lượng lớn lao động cho các DN, mang lại những lợi ích về tài chính, cải thiện nguồn nhân lực.

Tóm lại, những lợi thế dành cho DN Việt khi TPP có hiệu lực có thể nhìn thấy được ngay như: thị trường mở rộng ra hơn, thuế quan giảm, có những mặt hàng thuế suất bằng 0%, dễ dàng tìm kiếm những thị trường mới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội lớn thì còn có những thách thức đặt ra.

Và thách thức phải đối mặt

Thứ nhất, tham gia TPP, Việt Nam sẽ phải mở cửa chào đón hàng hóa, dịch vụ của các đối tác tại thị trường trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc DN trong nước phải cạnh tranh gay gắt hơn ngay tại sân nhà với DN các nước tham gia TPP. Thuế nhập khẩu và xuất khẩu của đa số mặt hàng trong tương lai sẽ giảm dần về mức 0% và thị trường đầu tư, dịch vụ, thương mại sẽ mở cửa tự do. Do đó, việc các DN Việt phải làm là giải bài toán về cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trong nước. Hệ quả theo sau thách thức này chính là nguy cơ làm mất đi thị phần nội địa. Thậm chí, các DN trong nước cũng phải cạnh tranh với nhau và bị đào thải nếu không đảm bảo nhu cầu của thị trường. 

Thứ hai, việc áp dụng tiêu chuẩn mới trong TPP sẽ tạo ra rào cản kỹ thuật (kể cả lao động và môi trường) và quyền lợi của nhà đầu tư, thí dụ như chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững, tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng về môi trường. Điều này yêu cầu các DN nếu muốn tận dụng cơ hội “vươn tới và tiếp cận” thị trường rộng mở của các nước thì phải am hiểu khi tiếp cận bất cứ thị trường nào, khi đã am hiểu và đáp ứng các tiêu chuẩn tiên quyết đặt ra mới có thể gia nhập sâu vào thị trường nước bạn.

Thứ ba, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ hết sức chặt chẽ, đề cập đến tất cả các nội dung, điển hình như quyền tác giả, nhãn hiệu, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh, thực thi quyền sở hữu trí tuệ… Đây chính là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam khi gia nhập TPP, bởi Việt Nam đang là một trong những quốc gia vi phạm bản quyền hàng đầu thế giới. Việc các DN nhận thức tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình ngay bây giờ chính là một mấu chốt giúp các DN bảo vệ được chính tài sản của DN khỏi sự xâm phạm của DN khác. Đồng thời còn thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, vì không có nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một DN đang vướng phải những tranh chấp về sở hữu trí tuệ.

Thứ tư, vấn đề bên trong của nền kinh tế. Hầu hết các DN và bản thân người dân Việt Nam chưa hình thành và bắt kịp thói quen về việc tuân thủ các quy định của pháp luật, còn thờ ơ, đôi khi bảo thủ. Vì vậy, khi tham gia TPP sẽ gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn về những tiêu chuẩn mới, những yêu cầu mới mà DN Việt chưa sẵn sàng để thay đổi.

Bản thân cơ hội không tự biến thành lợi ích và đôi khi chính thách thức lại làm nên cơ hội. Giữa lý thuyết và thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam sẽ tranh thủ khai thác các lợi thế trong TPP và ứng phó với thách thức, khó khăn như thế nào. Đối với các DN, chỉ khi có giải pháp phù hợp thì lợi thế tiềm năng mới trở thành hiện thực và các khó khăn mới có thể giải quyết được. Vì vậy, để biến thách thức thành lợi thế phụ thuộc vào chiến lược của bản thân DN và Nhà nước. 

Theo Luật sư Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch LP Group 
Đầu tư Tài chính