Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam. Hiển thị tất cả bài đăng
(Sàn giao dịch TMĐT B2B NOCNDEAL.com) - Để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ.


Sẽ không lâu nữa, người tiêu dùng có thể sẽ tìm thấy nhiều hơn những sản phẩm may mặc thương hiệu Việt Nam tại thị trường Mỹ, New Zealand, Australia, Nhật Bản hay nhiều quốc gia thành viên khác tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) với mức giá chỉ tương đương giá trong nước.

Tuy nhiên, khi nhiều nhà đầu tư bên ngoài TPP ồ ạt đầu tư vào lĩnh vực này đã làm dấy lên quan ngại rằng: Rất có thể chính họ mới là đối tượng được hưởng lợi từ TPP nếu doanh nghiệp dệt may Việt Nam chậm chân.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào dệt may trong giai đoạn 2014-2015 đã ghi nhận con số 2 tỷ USD mỗi năm. Đây là mức đầu tư bằng cả 10 năm trước đó cộng lại. Đã có những dự án quy mô lớn tới 400-500 triệu USD phần lớn đến từ các nhà đầu tư Hàn Quốc, Hong Kong hay Đài Loan thuộc Trung Quốc. Mức tăng đột biến này hoàn toàn được lý giải khi TPP giành ưu đãi thuế 0% cho dệt may nhưng với điều kiện: đảm bảo từ sợi cho đến thành phẩm phải được sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam.



Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho dệt may Việt Nam khi gia nhập TPP. Thực tế, có tới 90% doanh nghiệp trong nước chỉ hoạt động ở khâu gia công và mua nguyên liệu bán thành phẩm. Những đơn vị đầu tư vào sản xuất nguyên liệu phải nhập 100% bông xơ từ Mỹ hoặc Tây Phi, vì nguyên liệu trong nước không đảm bảo yêu cầu. Khi chưa đủ tiềm lực, nhiều doanh nghiệp trong nước đã nhìn nhận khu vực FDI như một đối tác thay vì một đối thủ như trước đây để có thể tận dụng nền tảng đầu tư hàng triệu USD từ khâu nguyên phụ liệu rồi cùng chia sẻ lợi ích từ TPP.

Về lâu dài, để thực sự chủ động và tăng phần hưởng lợi TPP theo thời gian, một số hạt nhân dệt may đã bước đầu đổ vốn vào công nghiệp phụ trợ. 2 năm chuẩn bị trước khi TPP có hiệu lực sẽ là thời gian để những dự án này nhanh chóng hoàn thiện, đưa ra nền tảng căn bản nhất cho dệt may trong nước tự tin bước vào TPP.

Dệt may với TPP - Nỗi lo còn dài hay TPP: Sân chơi không dễ cho dệt may... đều là những nhận định đúng. Song, cũng cần phải khẳng định thêm: Quy tắc xuất xứ của TPP cho dù khắt khe nhưng không phải là bài toán không lời giải đối với dệt may Việt Nam nếu khẩn trương chuẩn bị một cách bài bản.

VTV
(Sàn thương mại điện tử B2B NOCNDEAL.com) Theo bà Nguyễn Hoàng Thúy, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Australia, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên khi Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) có hiệu lực sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương giữa hai nước.




Bên lề Hội nghị Tham tán Thương mại ​đang diễn ra tại Hà Nội, bà Nguyễn Hoàng Thúy đã có một số trao đổi với phóng viên về những điểm nổi bật trong quan hệ thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Australia, nhất là những lưu ý đối với doanh nghiệp khi Hiệp định TPPcó hiệu lực.

- Là thị trường lớn, mức thu nhập bình quân đầu người cao, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tương đối dồi dào, Australia được đánh giá là một trong những bạn hàng lớn của Việt Nam. Vậy theo bà, khi Hiệp định Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương được ký kết, thương mại 2 chiều giữa hai quốc gia sẽ được kỳ vọng thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Hiện Việt Nam và Australia đã trở thành đối tác thương mại quan trọng của nhau, chỉ trong vòng 10 năm (2005-2014) đã tăng gấp đôi và được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ sau khi ký TPP.

Cụ thể, năm 2005 kim ngạch thương mại đạt 3 tỷ USD, đến năm 2014 đã tăng lên 6 tỷ USD. Trong khi Australia là bạn hàng xuất khẩu đứng thứ 8 và bạn hàng nhập khẩu đứng thứ 12 của Việt Nam thì theo chiều ngược lại Việt Nam là bạn hàng đứng thứ 14 của Australia cả về nhập khẩu và xuất khẩu.

Theo Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Australia/New Zealand (AANZFTA), đến năm 2020, Australia và New Zealand sẽ xóa bỏ thuế suất đối với 100% biểu thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Về thuế suất thì cam kết của Australia trong AANZFTA đã là 100% nên TPP không đem lại lợi ích trực tiếp về thuế quan cho Việt Nam trong quan hệ với Australia nhưng Hiệp định TPP sẽ đem lại nhiều lợi ích khác ngoài thuế, ví dụ, với TPP, cả Việt Nam và Australia đều nằm trong chuỗi giá trị của khu vực châu Á-Thái Bình Dương gồm 12 nước nên sẽ thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất trong chuỗi giá trị này, từ đó thúc đẩy thương mại song phương.

​Không những thế, các quy định về minh bạch hóa, thuận lợi hóa thương mại (như tự chứng nhận xuất xứ), hải quan cũng sẽ tạo thuận lợi, giúp thúc đẩy thương mại song phương Việt Nam-Australia.

​Ngoài ra, các quy định chặt chẽ về quyền sở hữu trí tuệ, đầu tư cũng sẽ giúp thu hút, tăng đầu tư từ Australia vào Việt Nam, từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại.

Một khía cạnh nữa là TPP cho phép cộng gộp nguyên liệu từ các nước thành viên, nên hàng hóa Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu từ các nước TPP sẽ được hưởng ưu đãi khi xuất khẩu sang Australia.

Với sự đa dạng của các thành viên TPP thì khả năng tăng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia sau khi TPP có hiệu lực là rất lớn.

- Một thực tế hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam còn chiếm đa số, vậy muốn tiếp cận thị trường Australia sẽ cần phải lưu ý những gì, thưa bà?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Chính sách thương mại và thuế của Australia khá minh bạch, nhưng hàng rào phi thuế quan (các quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch động vật...) khá chặt chẽ.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa nắm được, hoặc chưa cập nhật được các quy định nhập khẩu hàng hóa và quy định về kiểm dịch đối với hàng nhập khẩu của Australia. Vì vậy, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường này còn gặp khó khăn ở khâu thâm nhập thị trường và kiểm dịch.

Hơn thế nữa, thương hiệu cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm, đầu tư và phát triển xứng tầm.

Thực tế cho thấy, hầu hết những mặt hàng nông, thủy sản của Việt Nam được xuất khẩu vẫn chỉ ở dạng xuất thô, xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm đã qua chế biến thì phần lớn lại mang tên của đối tác nước ngoài. Giá trị xuất khẩu nông sản của Việt Nam so với các nước có trình độ tương đương thấp hơn nhiều. Vì thế, người tiêu dùng Australia chỉ biết một số ít thương hiệu hàng xuất khẩu Việt Nam.

Với thực trạng xuất khẩu hàng hóa sang Australia như hiện nay, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải khắc phục các mặt tồn tại, hạn chế để thúc đẩy hoạt động này phát triển tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của nước ta và nhu cầu nhập khẩu của phía Australia.



- V​ới góc độ Tham tán thương mại, ​theo bà những bất cập trên cần giải quyết như thế nào?

Bà Nguyễn Hoàng Thúy: Để tận dụng tốt nhất cơ hội mà Hiệp định AANZFTA cũng như Hiệp định TPP mang lại, theo tôi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Australia và những ưu đãi mà hàng xuất khẩu Việt Nam được hưởng trong các Hiệp định này.

Thực tế hiện nay, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia khá đơn điệu và chất lượng hàng còn nhiều bất cập khi so sánh với cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu của các đối thủ cạnh tranh khác, do vậy, các doanh nghiệp cần phải đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua việc đầu tư đổi mới công nghệ và chủ động triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9000, HACCP,...) đáp ứng yêu cầu bảo vệ sức khoẻ, môi trường.

Nếu muốn trụ vững trên thị trường Australia, các doanh nghiệp Việt Nam phải hướng đến một nền sản xuất sạch hơn, bởi chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu chứ không phải là sản lượng và giá cả thấp. ​​Đặc biệt, việc hình thành chuỗi liên kết là rất cần thiết để có thể cạnh tranh tốt hơn.

Một điểm nữa cần lưu ý là khi hàng xuất khẩu đã có chỗ đứng trên thị trường thì nhất thiết doanh nghiệp phải đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hóa, tránh bị mất hay tranh chấp thương hiệu.

- Xin cảm ơn bà.

cafeF.vn
(Sàn giao dịch TMĐT NOCNDEAL) - Nhiều doanh nghiệp bắt đầu rục rịch lên kế hoạch xuất khẩu sang Mỹ nhằm tận dụng lợi thế từ TPP mang lại




Đầu tháng 3 tới, Công ty Xuất khẩu Giày Liên Phát (Bình Dương) sẽ bắt tay thực hiện những lô hàng đầu tiên trong đơn hàng xuất đi Mỹ. Bà Trương Thúy Liên, Giám đốc Công ty Giày Liên Phát, cho biết để tận dụng lợi thế từ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhiều khách hàng Mỹ đã đến Việt Nam đặt vấn đề gia công với doanh nghiệp (DN).

Muốn xuất cả tăm, nhang, mùn cưa… qua Mỹ

Theo bà Liên, để làm hàng cho nhà nhập khẩu Mỹ, Liên Phát phải đáp ứng các yêu cầu về trách nhiệm xã hội và an ninh hàng hóa. Nghĩa là, mọi hàng hóa trong quá trình sản xuất đều phải có nguồn gốc rõ ràng và phía Mỹ sẽ giám sát quy trình này ở tất cả công đoạn. “Lần đầu tiên làm việc với DN Mỹ khá thuận lợi đang mở ra nhiều triển vọng lớn cho chúng tôi” - bà Liên hào hứng.

Một số nhà đầu tư trong ngành dệt nhuộm, may mặc, giày dép có nhà máy ở Trung Quốc cũng đã dời toàn bộ hoạt động sang Việt Nam nhằm đón đầu TPP bởi thị trường Mỹ quá hấp dẫn. Tham tán Công sứ thương mại Mỹ Đào Trần Nhân cho biết 99% giày dép bán tại Mỹ là hàng nhập khẩu. Thị trường này chỉ hơn 317 triệu dân nhưng tiêu thụ tới 2,5 tỉ đôi giày dép mỗi năm. Tính trung bình, mỗi người Mỹ sử dụng gần 8 đôi giày dép/năm. Hiệp hội Giày dép Mỹ ước tính nhờ TPP, thị phần xuất khẩu giày dép của Việt Nam tại nước này sẽ tăng từ 12% lên 22% vào năm 2019.

Đại diện Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cho biết gần đây đã nhận được rất nhiều yêu cầu của DN hỏi thông tin để xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Trong đó, phần lớn DN cần tìm hiểu kỹ thị trường và những lợi ích do TPP mang lại. Ngay cả những DN nhỏ chuyên sản xuất tăm tre, trầm hương, nhang và cả mùn cưa nén thành viên nhỏ để đốt lò sưởi... cũng muốn tìm hiểu thông tin để xuất hàng đi Mỹ khi TPP có hiệu lực. “Mới đây, có DN đang làm về xử lý ảnh nhưng lại hỏi thủ tục để xuất khẩu vải, nhãn vào Mỹ!” - ông Nhân tiết lộ.

Coi chừng rào cản kỹ thuật

Theo ghi nhận của phóng viên Báo Người Lao Động, sau khi TPP được chính thức ký kết vào đầu tháng 2-2016, rất nhiều DN xuất khẩu đang tìm hiểu các quy định về thủ tục, rào cản kỹ thuật để đưa hàng sang Mỹ.

Ông Lê Minh Chánh, Giám đốc HTX Thanh Long Long Trí (tỉnh Long An), cho biết đang tìm hiểu các quy định liên quan đến rào cản kỹ thuật nhằm đưa thanh long xuất khẩu qua Mỹ. Hiện thanh long của Long Trí chủ yếu xuất qua Trung Quốc nhưng không ổn định nên DN muốn tìm một thị trường mới bền vững hơn. Khó khăn lớn nhất mà ông Chánh e ngại là các quy định về rào cản kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm (như dư lượng kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật…) ở Mỹ rất phức tạp, không dễ tìm hiểu và thực hiện.

Theo ông Trần Quốc Thanh, thành viên HĐQT Tập đoàn Lộc Trời, khoảng 2 năm nay, DN này đã xuất khẩu gạo qua Mỹ. Đây là một thị trường rất lớn, hiệu quả về mặt kinh doanh và giá tốt nhưng vướng mắc lớn nhất vẫn là rào cản kỹ thuật. Chẳng hạn, những chỉ tiêu trong MRL (mức giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật) của cơ quan quản lý Mỹ đưa ra không rõ ràng khiến DN rất khó đáp ứng. “Thực tế, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không thua các nước như Thái Lan nhưng do chỉ xây dựng thương hiệu gần đây nên xuất qua Mỹ không đơn giản. Do đó, các DN trong ngành cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ phía nhà nước” - ông Thanh mong mỏi.

Liên quan đến những rào cản kỹ thuật mà Mỹ áp dụng đối với lĩnh vực nông - thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang làm việc với Mỹ để tìm hướng giải quyết. Đại diện Thương vụ Việt Nam tại Mỹ cho biết phía Mỹ không quy định rõ hàm lượng, dư lượng chất kháng sinh cụ thể, trong khi quy chuẩn ở châu Âu và Nhật khá rõ. DN muốn xuất khẩu hàng thực phẩm, động vật vào Mỹ cần nghiên cứu kỹ nội dung trong quy định của Luật Hiện đại hóa về vệ sinh an toàn thực phẩm. Với mặt hàng thực phẩm và đồ uống, DN xuất khẩu cần lưu giữ hồ sơ từ khâu sản xuất, chế biến của từng lô hàng để truy xuất nguồn gốc khi cần. Nếu DN từ chối, không cho kiểm tra, đồng nghĩa với việc sẽ bị từ chối xuất khẩu vào Mỹ.

“Một loại quả của Việt Nam muốn được xuất sang Mỹ cần 5-6 năm. Hiện chỉ có 4 loại: thanh long, chôm chôm, nhãn và vải của Việt Nam được phép chính thức xuất sang Mỹ. Chúng tôi đang làm việc để xoài và vú sữa có tên trong danh sách trái cây được nhập khẩu thị trường này. Trong khi đó, rất nhiều DN đã liên hệ với thương vụ để xin xuất khẩu đủ loại trái cây, như: chanh tươi, chanh dây…” - ông Nhân cho biết.

Phải hiểu để làm ăn với Mỹ

Theo nhiều chuyên gia kinh tế, Mỹ là thị trường lớn, có sức tiêu thụ rất cao nhưng hiện nay, đa số DN Việt Nam quy mô vừa và nhỏ nên không đáp ứng được đơn hàng lớn. Chẳng hạn, các hệ thống siêu thị của Mỹ đều là những tập đoàn hàng đầu thế giới, như Walmart có doanh số hằng năm gần 500 tỉ USD. Muốn bán hàng cho đại siêu thị này, cần những đơn hàng lớn nhưng lại vượt quá tầm của DN Việt. Do đó, các DN muốn làm ăn với Mỹ cần tính đến chuyện liên kết, hợp tác với nhau.
Sự ra đời của sàn giao dịch thương mại điện tử B2B tại NOCNDEAL.com phục vụ riêng cho các nước thành viên TPP là một trong những giải pháp rất hữu ích để hiện thực hóa  việc xuất hàng qua Mỹ đạt chuẩn TPP. Doanh nghiệp Việt Nam tham gia sàn NOCNDEAL sẽ được chuyên gia tư vấn kỹ về TPP, những điều cần thực hiện để sản phẩm của doanh nghiệp được xác nhận đạt chuẩn TPP.

cafeF.vn 
(Sàn TMĐT B2B NOCNDEAL) Trước thách thức của dệt may Việt Nam khi chạm ngưỡng cửa Hiệp định TPP, với kinh nghiệm hơn 30 năm trong nghề, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty CP May Hưng Yên, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên cho rằng, Việt Nam đang làm tốt khâu may thì chỉ nên tiếp tục làm tốt khâu đoạn này, "một nghề cho chín…"

>> Doanh Nghiệp Cần Chú Ý Đến Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Trong Thời Đại TPP
>> Tổng Thống Mỹ Obama Tin Tưởng Quốc Hội Thông Qua TPP
>> Dệt May Có 1 Chương Riêng Trong Hiệp Định TPP



Câu chuyện của dệt may trong TPP đang mở ra nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp trong ngành. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này?

Quy tắc chủ đạo của dệt may trong TPP là “yarn forward” hay còn gọi là “từ sợi trở đi”. Quy tắc này được hiểu một cách chung nhất là tất cả công đoạn sản xuất hàng dệt may bao gồm kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo phải được thực hiện trong nội khối TPP.

Tuy nhiên, TPP cũng chấp nhận một số mặt hàng được áp dụng quy tắc “cắt và may” đối với những sản phẩm gồm vali, túi xách, quần áo trẻ em tổng hợp…

Chính vì lẽ đó nên chúng tôi đang tìm cách triển khai đến các doanh nghiệp phải khai thác trước những lợi thế này. Lộ trình 5 năm tới sẽ cần đầu tư một số mặt hàng có lợi thế đáp ứng được yêu cầu của “yarn forward”.

Đây có phải là điểm khó nhất của doanh nghiệp dệt may khi tham gia TPP?

Đúng vậy, điều này đỏi hỏi trong vài năm tới chúng ta phải đáp ứng được vải hoàn tất, trong khi đó, hầu hết doanh nghiệp đang thiếu vốn đề đầu tư. Hai là doanh nghiệp cũng đang yếu về kỹ thuật. Do đó con đường sắp tới là phải “lôi kéo” doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, chúng ta là người góp vốn, cổ phần, có thể “đối tác” đầu tư tới 90% vốn nhưng phải cam kết bao tiêu sản phẩm đầu ra. Đó là con đường của doanh nghiệp dệt may trong thời gian tới.

Tổng kết năm 2015, ngành Dệt may đã không đạt được mục tiêu đề ra là 27,5 tỷ USD, theo ông nguyên nhân là do đâu?

Tại sao năm 2015 tăng trưởng của dệt may cũng như một số ngành hàng khác như thủy sản không đạt mục tiêu đề ra? Theo tôi có một nguyên do khá lớn là vấn đề tỷ giá.

Trong khi các nước đều hạ giá đồng tiền so với USD, ví dụ Nhật Bản hạ giá tới 17%, châu Âu 18% nhưng Việt Nam chỉ nới room từ 2 lên 4%, cộng trừ 2 nghĩa là chỉ tăng được 2% và cộng trừ 2 thôi, đương nhiên hàng Việt Nam trở thành hàng đắt, mà đắt đương nhiên thị trường thế giới sẽ chọn hàng rẻ hơn.

Bắt đầu từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tỷ giá trung tâm, không phải theo số liệu liên ngân hàng nữa mà theo cơ chế thị trường nhưng tôi cho rằng thực sự vẫn chưa linh hoạt. Nếu so sánh với tất cả đồng tiền trong ASEAN hay những thị trường xuất khẩu lớn như Nhật Bản hay châu Âu, chúng ta đều chưa bằng.

Vậy theo ông, triển vọng 2016 đối với doanh nghiệp sẽ như thế nào?

Năm 2016 chúng tôi xác định vẫn là những khó khăn. Hiện doanh nghiệp thế giới vẫn đang tìm nơi nào cung cấp sản phẩm có giá tốt, bởi trong thương mại, giá là vấn đề đầu tiên doanh nghiệp quan tâm. Do đó, chúng ta phải làm tốt được vấn đề này.

Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không thể trông chờ tất cả vào Nhà nước mà phải tự điều chỉnh. Điều chỉnh ở đây là nâng cao năng lực sản xuất, tăng năng suất lao động để giảm những chi phí đầu vào tăng như bảo hiểm xã hội, phí công đoàn…

Tôi cũng rất quan tâm đến vị trí của doanh nghiệp Việt trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu. Muốn có một sản phẩm dệt may cần có nhiều công đoạn, từ trồng bông, dệt sợi đến cắt may, phân phối. Tôi cho rằng, nếu chúng ta đang làm tốt khâu may, tốt nhất vẫn nên làm tốt khâu này. Trung Quốc nhận cắt may một áo sơ mi với giá 90 xu, nếu ta nhận với giá 85 xu, ta sẽ lấy được mối hàng còn nếu nhận với giá 1 đồng thì không ai giao hàng cả. Con đường duy nhất là làm tốt một khâu nào đó trong chuỗi thì mới tham gia được trong chuỗi liên kết toàn cầu.

Cá nhân ông có kỳ vọng gì trong năm 2016?

Doanh nghiệp đang rất kỳ vọng vì thành công của Đại hội Đảng XII và tháng 5 tới sẽ bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Chắc chắn với tư tưởng đổi mới của Đại hội Đảng, nhiều vấn đề sẽ được cải cách.

Trong năm 2015 Chính phủ đã thực hiện được nhiều vấn đề cải cách. Theo đà này, nhiều lĩnh vực sẽ không chỉ đạt được tiêu chuẩn của ASEAN 6 mà có thể là ASEAN 3, có nghĩa là môi trường sẽ rất thông thoáng cho doanh nghiệp hoạt động và phát triển.

Số lượng doanh nghiệp thành lập trong năm 2015 tăng đột biến, tôi tin rằng trong năm 2016 này, sức sống của doanh nghiệp sẽ tốt hơn, doanh nghiệp sẽ đón nhận nhiều điều mới hơn trong quá trình đổi mới và phát triển của đất nước.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: Báo Hải Quan Online
(Sàn thương mại điện tử b2b NOCNDEAL) - Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mở cho Việt Nam thị trường xuất khẩu rộng lớn với nhiều mặt hàng nông nghiệp chủ lực; ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kỹ năng lao động... Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn...

Cảnh báo dư thừa lao động nông nghiệp 

Hiện Việt Nam có khoảng 46% lao động đang làm việc trong khu vực nông nghiệp, trong đó chỉ khoảng 250.000 lao động làm việc trong các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp hoặc các hợp tác xã. Còn lại khoảng 23 triệu lao động trong khu vực phi chính thức, đó là kinh tế hộ gia đình hoặc các công việc không ổn định khác. Bên cạnh niềm vui TPP được thông qua, là góc khuất về số phận của những lao động phi chính thức này. Tham gia vào TPP, doanh nghiệp Việt nếu cạnh tranh được sẽ lớn mạnh lên, ngược lại một số khác có thể bị thay thế bởi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI); hàng nhập khẩu của các nước phát triển có tính cạnh tranh cao hơn hàng sản xuất trong nước, sẽ làm cho nông dân mất việc làm. “Hàng hóa nông nghiệp, đặc biệt là sản phẩm chăn nuôi từ Mỹ, New Zealand sẽ tạo sức ép cạnh tranh rất cao với ngành chăn nuôi, bởi các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nói chung là có tiêu chuẩn thấp hơn các nước thành viên TPP. Do đó nếu dựng hàng rào kỹ thuật để bảo hộ thị trường trong nước thì sẽ vi phạm điều khoản chống phân biệt đối xử đã ký kết trong TPP”, ông Lê Văn Bảnh, Cục trưởng Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ NN&PTNT) phân tích.

Tại một số cuộc hội thảo bàn về nông nghiệp Việt trước thách thức và vận hội từ TPP mới đây, các chuyên gia đều cho rằng, lao động đang làm việc trong khu vực phi chính thức cả ở nông nghiệp và thành thị hiện đang đối mặt với nguy cơ thất nghiệp. Nếu quá chú trọng vào phát triển những ngành công nghệ cao (thường là thâm dụng vốn) sẽ đẩy nền kinh tế nước ta vào tình trạng lưỡng phân: Một khu vực cạnh tranh được, có năng suất lao động cao, thu nhập tăng và một khu vực bị đẩy vào những thị trường phi chính thức không có năng lực cạnh tranh, thu nhập ngày càng giảm. Điều này sẽ làm gia tăng bất bình đẳng trong xã hội, tăng nguy cơ bất ổn xã hội như dự báo của một số nghiên cứu gần đây.

Ở góc nhìn khác, sự thay đổi về phương thức sản xuất ở trong nước khi đã thích ứng với môi trường cạnh tranh từ bên ngoài buộc phải chuyển sang sản xuất lớn, quy mô công nghiệp, nhưng sản xuất lớn với quy mô công nghiệp sẽ làm cho nhu cầu lao động giảm xuống. “Đơn cử, nếu vẫn sản xuất nhỏ lẻ như hiện nay, thì có thể cần một nghìn người, thậm chí cả vạn người để tham gia sản xuất chăn nuôi. Nhưng nếu đầu tư trang trại quy mô chuẩn, thì chỉ cần vài trăm người là có thể sản xuất quy mô lớn. Như vậy, số lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ dư thừa lớn” - ông Lê Văn Bảnh cảnh báo.

Chế biến tôm xuất khẩu.

Cần hình thành các cụm liên kết ngành

Trước thực tế này, các chuyên gia nhận định, để lao động nông nghiệp Việt Nam không bị “lao đao” khi hội nhập, cần phải nhanh chóng hình thành nên các doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn và từ đó tạo lập nên các mối liên kết với các doanh nghiệp nhỏ làm các nhà cung ứng đầu vào, cung ứng các dịch vụ đầu ra, liên kết với các tổ chức cung ứng dịch vụ cần thiết như kỹ thuật, lao động, tư vấn… để hình thành nên các cụm liên kết ngành. Sức mạnh cạnh tranh mang tính toàn cụm và do các doanh nghiệp dẫn đầu kiểm soát. Việc làm sẽ được tối đa hóa nếu hình thành được các cụm liên kết ngành.

Trong bối cảnh hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và sắp được ký kết đang đặt ngành nông nghiệp trước yêu cầu phải gấp rút tái cơ cấu. Thế nhưng, làm thế nào để có nguồn lực tái cơ cấu và làm thế nào để hộ nông dân cá thể hội nhập thành công hiện vẫn là bài toán khó. Về điều này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng thừa nhận, ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với khá nhiều thách thức, bởi năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Một khi phương thức sản xuất manh mún, lạc hậu, phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu thì rất khó đáp ứng quy tắc xuất xứ nên hàng hóa khó được các nước yêu cầu tiêu chuẩn cao chấp nhận. Điều này kéo theo việc tạo công ăn việc làm, giải quyết lao động trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ trở nên khó khăn.

Với hơn 90 triệu dân, trong đó hơn 70% dân số sống ở nông thôn, hỗ trợ phát triển nông nghiệp cũng là hỗ trợ cho đại đa số người dân. Thế nhưng, phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao cũng không thể rập khuôn theo cách làm của thế giới, mà phải dựa trên đặc điểm riêng của Việt Nam. Việt Nam có điều kiện tự nhiên thích hợp cho phát triển nông nghiệp, song đất đai lại manh mún, doanh nghiệp nhỏ lẻ, lao động tuy dồi dào nhưng trình độ thấp...

Do vậy, phát triển nông nghiệp công nghệ cao phải theo hướng vừa tận dụng được lợi thế tài nguyên, lao động, vừa liên kết được với nông dân, vừa giải quyết được lao động dư thừa... Đây là những vấn đề cần tính đến khi hiện đại hóa nông nghiệp khi gia nhập TPP. 

NGUYỄN THANH
Lao động và Xã hội
Ngày 4-2-2016, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết giữa 12 nước, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Hoa Kỳ và Việt Nam (các nước này có tổng quy mô kinh tế chiếm 40% GDP và 30% thương mại toàn cầu). Mặc dù được đánh giá sẽ là cơ hội lớn, tuy nhiên cho đến thời điểm này, không ít DN dệt may, giày da rất lo lắng bởi chưa nắm bắt được các vấn đề cụ thể trong TPP.



Ngành giày da chủ yếu vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước không tham gia TPP.

CÒN “MÙ MỜ” VỀ TPP

Đây là câu trả lời của rất nhiều DN trong ngành may mặc, giày da khi hỏi về TPP. Họ cho rằng, mặc dù có nghe nói đến TPP nhiều nhưng lại không nắm bắt được các điều khoản cụ thể. Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc Công ty May Bà Rịa (xã Tam Phước, huyện Long Điền) cho biết: “Chúng tôi có nghe nói nhiều đến TPP. Song thành thực mà nói, chúng tôi chưa hiểu TPP sẽ tác động cụ thể đến DN như thế nào”.

Bà Đỗ Thị Mỹ Hạnh cho biết thêm, Công ty May Bà Rịa đang sản xuất giày leo núi và trượt tuyết, mỗi năm xuất khẩu đi các nước châu Âu hơn 15.000 sản phẩm. Hầu hết các nguyên phụ liệu sản xuất của Công ty May Bà Rịa đều phải nhập khẩu. “Thậm chí, nút nhựa chúng tôi còn phải nhập khẩu từ Trung Quốc”, bà Hạnh nói.

Nguyên liệu nhập khẩu là một trong những thách thức lớn cho ngành dệt may, da giày khi TPP được ký kết. Vì thực hiện quy tắc xuất xứ của TPP, quy định hàng dệt may, da giày của Việt Nam nhập nguyên liệu từ các nước không tham gia hiệp định thì hầu như sẽ không được hưởng các ưu đãi. Hiện Việt Nam chủ yếu nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Riêng tại BR-VT, tỉnh vẫn đang chủ trương hạn chế thu hút đầu tư các lĩnh vực nhuộm, sợi, da thuộc do hệ lụy về ô nhiễm, thâm hụt lao động… Điều này cũng làm cho vấn đề nguyên liệu cung cấp cho các ngành dệt may, da giày trở nên khó khăn hơn.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hiền, Phó Tổng Giám đốc điều hành Tập đoàn Phong Thái (có 2 công ty đang hoạt động sản xuất về giày da, bóng golf và bóng da là Công ty TNHH Sản xuất giày Uy Việt và Công ty TNHH Đông Phương Vũng Tàu) cho biết, hiện tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu của Uy Việt chiếm khoảng 60%, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan… Trong khi đó, các nước này lại không tham gia TPP nên khó hưởng các ưu đãi từ Hiệp định này.

Ngành dệt may được hưởng nhiều ưu đãi từ TPP.

CẦN THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ MAY MẶC

Theo bà Bùi Thị Dung, Giám đốc Sở Công thương, một trong những lợi ích quan trọng nhất mà TPP mang lại chính là các DN sẽ được tham gia chuỗi giá trị hàng hóa nội khối. Nhưng để tham gia vào chuỗi giá trị, các sản phẩm, hàng hóa của DN phải đạt chuẩn quốc tế. Đáng tiếc là hiện nay, sản phẩm của DN trên địa bàn tỉnh đạt chuẩn quốc tế chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Bà Bùi Thị Dung cho biết thêm, trong thời gian tới, Sở Công thương sẽ tăng cường tuyên truyền, phổ biến tới DN, Hiệp hội về các Hiệp định đã và đang ký kết, nhất là TPP. Đầu tháng 2-2016, Sở Công thương đã phối hợp các sở, ban ngành làm việc với đoàn nghiên cứu Đại học Canberra (Úc) và Hội doanh nghiệp Việt - Úc do Tiến sĩ Scott H. Murray dẫn đầu để thực hiện đề tài nghiên cứu “Tác động của chuỗi giá trị TPP đối với nền kinh tế của BR-VT”. Riêng đối với ngành dệt may, cuối năm 2015 Sở Công thương đã tiến hành khảo sát 32 DN trên địa bàn tỉnh, đánh giá mặt mạnh cũng như điểm yếu của các DN trong lĩnh vực này. Trên cơ sở đó, thời gian tới tỉnh sẽ đẩy mạnh các hoạt động nhằm đa dạng hóa mặt hàng dệt may, quan tâm nhiều hơn vấn đề xuất xứ nguyên liệu để bảo đảm đủ tiêu chuẩn hưởng chính sách ưu đãi từ TPP.

Theo Sở Công thương, trước mắt để giải quyết các khó khăn, vướng mắc và nâng cao tính cạnh tranh cho các DN ngành dệt may, Sở Công thương kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo Ban Quản lý Các KCN làm việc với chủ đầu tư KCN hình thành phân khu công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may, đồng thời hỗ trợ tiền thuê mặt bằng nhà xưởng cho các DN thuộc lĩnh vực này, có cơ chế hỗ trợ (phù hợp với quy định chung) cho DN để có vốn đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ… nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: LAM GIANG

Theo Bộ Công thương, thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ của các mặt hàng dệt may từ Việt Nam giảm 50% ngay năm đầu tiên TPP có hiệu lực (tương đương 1 tỷ USD) và sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 30% mỗi năm; về quy tắc xuất xứ “từ sợi trở đi”, có một số linh hoạt như nhập nguyên liệu từ nước thứ ba để sản xuất hàng dệt may xuất khẩu vào Hoa Kỳ vẫn được hưởng ưu đãi theo TPP. Đối với ngành da giày, dự kiến giảm khoảng 60% số thuế nhập khẩu phải nộp cho Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu được đánh giá sẽ tăng khoảng 25% so với tốc độ tăng 15% trước khi tham gia TPP; kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản và sản phẩm chế biến có khả năng tăng lên. Đồng thời, tham gia TPP là cơ hội để Việt Nam gia nhập vào các chuỗi cung ứng của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới.
"Việt Nam rất có giá trong TPP" - Đây là nhận định được ông Trương Đình Tuyển, cố vấn đàm phán của Chính phủ đưa ra tại hội thảo “Cơ hội và thách thức của kinh tế Việt Nam khi Hiệp định TPP có hiệu lực” do Hội Luật gia Việt Nam phối hợp với Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế TBLA tổ chức chiều 19-2 tại TP.HCM.




Theo ông Trương Đình Tuyển, về kinh tế, trong tương lai Việt Nam là nước đem lại giá trị gia tăng lớn thứ 2 cho Hoa Kỳ, sau Nhật Bản. Về chiến lược, Việt Nam là một nước có trình độ thấp nhất trong các nước tham gia TPP, do đó, Việt Nam sẽ là hình mẫu để Hoa Kỳ thúc đẩy các nước khác trên vành đai Thái Bình Dương tham gia đàm phán khu vực mậu dịch tự do APEC. Ngoài ra, Việt Nam cũng có vị trí địa chính trị rất quan trọng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc.

Trên cơ sở đó, TPP mở ra những cơ hội rất lớn cho Việt Nam về các mặt thu hút đầu tư, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ mới, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh…

Tuy nhiên, song hành với cơ hội cũng là những thách thức không nhỏ. Trước tiên, đó là sự cạnh tranh quyết liệt trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Trong đó cạnh tranh về chất lượng thể chế và môi trường kinh doanh là yếu tố quyết định. Tiêu biểu như các sản phẩm nông nghiệp, thách thức lớn nhất vẫn là đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và phòng chống dịch bệnh. Nếu không đảm bảo, dù thuế nhập khẩu của các nước được đưa về 0%, hàng hóa dồi dào, chủng loại phong phú nhưng chất lượng kém vẫn không xuất khẩu được.

Ông Tuyển nhấn mạnh, cơ hội tự nó không biến thành lợi ích, không tự nó biến thành sức mạnh trên thị trường. Tương tự, thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng ép đến đâu còn tùy thuộc vào đối sách của chủ thể. Chủ thể ở đây là nhà nước và doanh nghiệp.

Vậy làm thế nào để tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức? Theo ông Tuyển, việc trước tiên là các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp phải năm vững các cam kết của Việt Nam và 11 đối tác để thực thi cho đúng. Nếu không sẽ bị kiện khi thực hiện không đúng cam kết và cũng không biết để kiện lại khi đối tác vi phạm.

Hầu hết các ý kiến tại hội thảo cũng cho rằng, vấn đề giải quyết tranh chấp là thách thức không nhỏ của Việt Nam khi tham gia TPP. Luật sư, PGS.TS Chu Hồng Thanh, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam nhận định, khi tham gia TPP, chắc chắn sẽ có những tranh chấp nảy sinh. Do đó, việc nghiên cứu sâu các quy định về giải quyết tranh chấp đã được ghi nhận trong Hiệp định TPP là một việc không thể bỏ qua.

Theo các chuyên gia, hệ thống thực thi pháp luật của Việt Nam hiện còn yếu, sự phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chưa tốt. Đội ngũ nhân lực về pháp luật còn yếu về nhiều mặt. Do đó, ông Trương Đình Tuyển cũng cho rằng, các luật sư của Việt Nam cần thành thạo ngoại ngữ và nắm vững các cam kết trong hiệp định, trong đó đặc biệt chú ý các chương về pháp lý thể chế, đầu tư, sở hữu trí tuệ và cả WTO…; nắm vững các công ước quốc tế có liên quan đến xử lý tranh chấp được dẫn chiếu trong hiệp định…

Liên quan đến vấn đề cạnh tranh của doanh nghiệp, ông Tuyển đánh giá, chỉ số cạnh tranh toàn cầu và môi trường kinh doanh của Việt Nam đang ở mức thấp và là vùng trũng trong ASEAN. Theo báo cáo Chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2015 -2016 do WEF công bố, chỉ số cạnh tranh về thể chế - một yếu tố quyết định của cạnh tranh vĩ mô, Việt Nam xếp thức 92 trong số 140 nước được xếp hạng và đứng thứ 8 trong 10 nước ASEAN (thấp hơn các nước ASEAN-6 và thấp hơn cả Lào).

Cũng theo báo cáo này, các chỉ số mà DN có vai trò quyết định đến khả năng cạnh tranh vi mô, Việt Nam có thứ hạng rất thấp: xếp thứ 99 về sự sẵn sàng về công nghệ, sự tinh thế trong kinh doanh xếp thứ 106, đổi mới sáng tạo xếp thứ 87. Về môi trường kinh doanh, theo đánh giá của WB, năm 2015, Việt Nam xếp thứ 78, tụt 6 hạng so với năm 2014.

Từ thực tế đó, ông Trương Đình Tuyển cho rằng, để cải thiện môi trường kinh doanh, yếu tố quyết định chính là cải cách thể chế để nâng cao năng lực cạnh tranh vĩ mô.

Theo CafeF.vn
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam nói để đạt được trọn vẹn các lợi ích từ TPP, Việt Nam cần thực hiện tất cả các cam kết trong đó có việc giảm bớt vai trò doanh nghiệp nhà nước.


Ông Ted Osius đã có 25 năm làm ngoại giao, với phần lớn thời gian làm việc ở châu Á.

Trả lời phỏng vấn với Nguyễn Hoàng của BBC Tiếng Việt tại Hà Nội vào đầu tháng này, ông Ted Osius cũng nói rằng Việt Nam nên tận dụng lợi thế là nước tham gia sớm và hưởng lợi kinh tế từ thỏa thuận TPP.

BBC: Thỏa thuận TPP đã được ký kết. Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama nói rằng TPP là một dạng thỏa thuận mậu dịch mới "đặt quyền lợi của người lao động Mỹ là trên hết". Ông có nghĩ rằng điều này cũng đúng với trường hợp người lao động ở Việt Nam hay không?

Vâng tôi cũng nghĩ vậy. Có một thỏa thuận mạnh mẽ về lao động trong TPP. Thực ra là có thỏa thuận cụ thể giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về quyền của người lao động. Và Việt Nam đã quyết định đưa ra những cam kết phù hợp với chính sách chung của Việt Nam là hội nhập quốc tế toàn diện và đã quyết tâm tuân thủ tất cả các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) liên quan tới quyền của người lao động nên đây là một bước đi quan trọng. Tôi nghĩ rằng bước đi này tốt cho người lao động Việt Nam và tốt cho tất cả các nước tham gia thỏa thuận TPP đã được ký.

BBC: Hoa Kỳ và Việt Nam vào năm 2001 ký kết hiệp định thương mại song phương (BTA). Tới nay là hơn 15 năm việc thực hiện thỏa thuận này nhưng Hoa Kỳ vẫn xem Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường. Do đó đối với TPP phải chăng cũng cần phải có thời gian để thực hiện sao cho hợp lý?

Đúng là cần phải có thời gian để thực hiện các cam kết. Hầu hết các cam kết của Việt Nam phải được thực hiện trước khi TPP có hiệu lực. Tức là khoảng hai năm nữa kể từ lúc này. Có một số cam kết theo lộ trình trong lĩnh vực thuế quan. Có một số lĩnh vực mà Việt Nam đã đàm phán để có được lộ trình phù hợp nhằm tạo điều kiện cho một số ngành trong nước có thêm thời gian để điều chỉnh.

Về lao động thì phần lớn các cam kết phải được thực hiện trước khi thỏa thuận có hiệu lực. Do hệ thống lập pháp và hệ thống chính trị của Việt Nam nên có thể cần phải mất nhiều thời gian hơn và phải được thực hiện trong vòng 5 năm. Do đó đối với một số ít các cam kết thì cần có thêm thời gian thực hiện nhưng hầu hết mọi cam kết phải được thực thi khi hiệp định này bắt đầu có hiệu lực.

Cuộc phỏng vấn với Đại sứ Osius được thực hiện tại tư dinh của ông và gia đình ở Hà Nội.

BBC: Khác với một số nước tham gia TPP, Việt Nam có đặc thù là nền kinh tế do nhà nước nắm phần chủ đạo. Khi Việt Nam tham gia TPP thì ông nghĩ rằng để hưởng lợi toàn diện từ thỏa thuận này thì Việt Nam đối diện những thách thức gì?

Để có thể đạt được trọn vẹn các lợi ích từ TPP thì Việt Nam phải thực hiện tất cả các cam kết của mình. Đó là vì Việt Nam sẽ không hưởng lợi được chừng nào mà Việt Nam hoàn thành quá trình thực hiện cam kết của mình. Để thực sự có được đầy đủ các lợi ích bao gồm dịch chuyển được lên chuỗi giá trị, cũng như cắt giảm một số dòng thuế, tham gia vào 40% nền kinh tế thế giới, thì Việt Nam cần phải mở rộng khu vực kinh tế tư nhân. Và TPP đã mở ra một hướng để Việt Nam có thể thực hiện được điều mà Việt Nam muốn làm bấy lâu nay, theo đó phải giảm bớt vai trò của các doanh nghiệp nhà nước và tăng cường vai trò của khu vực tư nhân.

Sẽ có thách thức đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tận dụng một cách toàn diện lợi ích của TPP theo đó doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng chính phủ Việt Nam khá nghiêm túc bắt tay vào chiến dịch nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp ngay lúc này. Tôi thấy Việt Nam không hề do dự. Đại hội Đảng mới đây đã nhất trí cho việc thông qua TPP và tôi thấy đã có sự chủ động cao trong việc triển khai việc nâng cao nhận thức cho lĩnh vực nông nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam đối với những lợi ích mà TPP có thể mang lại.

BBC: Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận đối tác toàn diện, trong chừng mực nào TPP sẽ là lực đẩy mạnh hơn cho quan hệ Mỹ-Việt?

Tôi nghĩ là vô cùng lớn. TPP là ưu tiên số một của chúng tôi và tôi nghĩ rằng thỏa thuận này tạo ra nền tảng cho các mối quan hệ trong nhiều thập kỷ tới bởi vì nó làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác kinh tế, giúp Việt Nam trở nên thịnh vượng hơn, mạnh hơn và độc lập hơn và tạo cơ hội cho các quốc gia tham gia khu vực tư nhân trong thời gian dài nữa. Vì vậy, tôi nghĩ rằng thỏa thuận này là sự đóng góp rất lớn.

Theo BBC
Trong các đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một thỏa thuận tự do thương mại giữa Mỹ và 11 đối tác thương mại khác giáp với Thái Bình Dương. TPP là giữa Brunei, Australia, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam chiếm đến chiếm 40% tổng sản lượng GDP toàn cầu (số liệu năm 2012). Nếu tính số liệu mới nhất năm 2014 thì 12 nước tham ra TPP tạo ra 45,20% sản lượng GDP của thế giới.

Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới


Trong đó có 3 nước gồm Mỹ, Nhật, Canada chiếm hết gần 40% sản lượng GDP thế giới, tức 3 nước này chiếm đến 38,4% sản lượng GDP toàn cầu. Đáng buồn, sản lượng kinh tế của VN năm 2014 chỉ tạo ra 186,20 tỷ đô la Mỹ, tức là chỉ chiếm 0,30% sản lượng GDP của thế giới.

Ta nhắc lại, thực tế hiên nay, chỉ có Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đang lưu hành và áp dụng, hiện là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới nó bao gồm 3 nước giữa Mỹ, Canada và Mexico với sản lượng GDP kinh tế hiện nay là 20.488,38 tỷ USD, tức chiếm 33,05% GDP của nền kinh tế thế giới.

Nếu khu vực thương mại TPP được hình thành có lẽ gần hết năm 2017, thì nó sẽ là lớn hơn so với các Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA).

Tuy nhiên, Mỹ cũng đang đàm phán Thương mại và Đầu tư Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương (TTIP) với Liên minh châu Âu – EU, quy tụ 28 thành viên, gồm: Áo, Bỉ, Bulgaria, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ireland, Ý, Latvia, Lithuania, Luxembourg, Malta, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Romania , Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh với 508,2 triệu người vào năm 2014, với sản lượng kinh tế cao nhất địa cầu, nếu tính số liệu mới nhất trong năm 2014 thì sản lượng GDP của 28 nước Liên minh châu Âu đạt được là 18.460,60 tỷ USD, chiếm 29,78% sản lượng GDP của nền kinh tế thế giới, cộng thêm 318,86 triệu dân Mỹ nữa thì sức nặng thật đáng ngại, vì nó có số dân chiếm đến 827 triệu dân.. Nếu cộng sản lượng GDP của EU và Mỹ tạo ra trong năm 2014 lên đến 35.879,60 tỷ USD, tức chiếm đến 57,88% sản lượng GDP toàn cầu.

Nếu cả TPP và TTIP cùng ký thành luật và áp dụng ra thị trường thì rõ ràng “tam hùng” này xếp theo thứ tự: ngôi vị số 1 thuộc về TTIP, số 2 thuộc về TPP, và số 3 thuộc về NAFTA.

Trở về hồ sơ tam hùng của 3 nước trong TPP, gồm Mỹ, Nhật, Canada thì rõ ràng ta sẽ thấy 3 nước này nằm trong nhóm G-7, quy tụ 7 nước công nghiệp hóa hàng đầu của thế giới gồm: Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Hoa Kỳ và Canada (Nga bị loại, trước đây là G-8, do Nga chiếm bán đảo Crimea của Ukraine, và kinh tế Nga từ hạng 8 nay rơi xuống vực chỉ xếp thứ hạng 11 các nền kinh tế lớn của thế giới).

Trong 3 nước này là thành viên Câu lạc bộ Paris gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Mỹ, Đức, cũng nằm trong Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs được Quỹ Tiền tệ Quốc tế đặt ra năm 1969, thì đồng USD và đồng yên Nhật (JPY) nằm trong rổ tệ mạnh, ngoài đồng Bảng Anh (GBP), đồng EUR. Đối với Trung Quốc sắp tới thì muốn đem “tiền của người dân” (the money of the people), như đồng nhân dân tệ (RMB) vào Quyền rút vốn đặc biệt, viết tắt là SDRs.

Cũng trong tam cường Mỹ, Nhật, Canada này thì cả ba nước đều có đồng bạc nằm trong rổ tiền để tính ra giá trị của đồng USD qua chỉ số gọi là (USDX, DXY) gồm 6 loại tiền thông dụng là đồng EUR, yên Nhật (JPY), Bảng Anh (GBP), đồng đô la Canada (CAD), Krona Thụy Điển (SEK), Franc Thụy Sĩ (CHF). Đây là lĩnh vực rất chuyên môn về tài chính để tính toán lời lỗ trong kinh doanh, qua việc có thể trao đổi song phương bằng đồng tiền của từng đối tác để hạn chế rủi ro về tỷ giá.

Qua đó nó cho thấy sức nặng quá lớn của tam cường có nền kinh tế và khoa học hiện đại nhất hành tinh, như Mỹ, Nhật chẳng hạn. Việt Nam chỉ là một nước chậm tiến với sản lượng kinh tế quá ít ỏi nên không có bất cứ trọng lượng nào cả.

Đối với Mỹ, hãy thận trọng, tuy Mỹ xuất khẩu chỉ chiếm 13% của GDP, nhưng Mỹ lại là nước xuất khẩu lớn thứ ba của thế giới sau Trung Quốc và khối kinh tế 28 nước EU cộng lại. Cụ thể, trong năm 2014, Mỹ xuất khẩu hàng hóa của Mỹ 1.621 tỷ USD. Trong khi TQ xuất khẩu được 2.343 tỷ USD hàng hóa, khối kinh tế EU xuất khẩu được là 2.173 tỷ USD. Điều đó cho thấy VN đừng hồ hởi sảng mà dễ dàng cạnh tranh được hàng hóa Mỹ. Về nhập khẩu, Mỹ lại là nước nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới.

Hãy cảnh giác, tuy xuất khẩu nông nghiệp của Mỹ chỉ chiếm chỉ 1,5% của GDP, nhưng do sử dụng công nghệ tiên tiến, Mỹ lại là một nước xuất khẩu ròng lương thực rất lớn. Chẳng hạn, trong quý thứ hai của năm 2015, GDP từ nông nghiệp tạo ra lên đến 191,10 tỷ USD. Chỉ cần có một quý thôi đã tạo ra sản lượng GDP lớn hơn sản lượng GDP của Việt Nam tạo ra trong năm 2014 chỉ có 186,20 tỷ USD. Trong quý đầu tiên của năm 2013, GDP từ nông nghiệp của Mỹ lên đến 235,10 USD tỷ USD,…

Đối với Canada, VN hết sức thận trọng về lĩnh vực nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá và săn bắn chỉ chiếm 2% sản lượng GDP của Canada, nhưng hãy nhớ rằng Canada lại là quốc gia xuất khẩu ròng về lĩnh vực nông nghiệp lớn nhất thế giới bởi các sản phẩm nông nghiệp. Thật bất hạnh cho VN, nếu không tỉnh táo cải tiến năng suất, giảm thuế, tự chủ về thức ăn cho chăn nuôi, hay các lĩnh vực khác thì chắc chắn lĩnh vực nông nghiệp tại VN sẽ bị xóa sổ bởi TPP chỉ cần hai nước này thôi.

Đối với Nhật thì rõ ràng không cần phân tích gì nhiều thì tất cả người VN đều biết sản phẩm của Nhật. Tuy nhiên, Nhật là nước nhập khẩu lương thực rất lớn, tất nhiên phải là những sản phẩm đáp ứng theo tiêu chuẩn khắt khe của Nhật, những trò gian dối dùng thuốc tăng trưởng hay chất kích thích sẽ không bao giờ qua mắt được Nhật.

Hãy thận trọng, Nhật là nước xuất khẩu rất lớn thứ 3 trên thế giới xếp sau Trung Quốc và Đức, với kim ngạch xuất khẩu chiếm gần một phần ba sản lượng GDP kinh tế của Nhật trong lĩnh vực xuất khẩu. Tuy nhiên, thật may mắn, lĩnh vực xuất cảng của Nhật ít trùng khớp với các mặt hàng xuất cảng của VN.

Nói riêng về VN, trong 12 nước tham gia TPP thì VN có sản lượng GDP thấp nhất chỉ xếp trên Vương quốc Brunei (tuy nhiên Brunei là nước nhỏ, nhưng rất giàu có).

Nói chung, khi phát triển kinh tế bằng hội nhập quốc tế, thì VN cũng phải tính toán bền vững về dài, bởi lẽ lợi thế nhân công rẻ không bao giờ là mãi mãi nếu VN muốn đòi hỏi trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 – 2040. Tuy trước mắt VN cần thu hút đầu tư nước ngoài bằng đồng lương thấp để tích lũy tư bản tài chính để nhằm nâng đồng lương cho công nhân cao hơn sau này. Thực tế, khi VN gia nhập TPP thì về dài hạn phải đổi mới bằng năng suất lao động cao hơn, vì lương thấp sẽ hết là hấp dẫn giới đầu tư khi VN đã là tư cách một nước công nghiệp (vì VN muốn vậy). Điều đó nôm na là VN không phải là nước làm gia công cho thiên hạ nữa nếu muốn “hóa Rồng”.

Muốn thế thì phải nghĩ đến việc cải tiến cao hơn để làm ra mặt hàng có giá trị kinh tế hơn, việc này đòi hỏi nhân công phải có tay nghề và kỹ thuật cao hơn, điều đó phải có yếu tố nền giáo dục có phẩm chất.

Thực tế, để tăng sản phẩm suất siêu có phẩm chất thì VN cần phải nâng cao tối đa tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm, tất nhiên, đội ngũ nhân công phải được đào tạo tốt, bởi lẽ VN có đủ điều kiện làm việc này vì có nhiều tài nguyên khoáng sản, con người thông minh, nhưng đáng tiếc là những sản phẩm tạo ra đều là mặt hàng thô không có lời nên kém hấp dẫn các đại công ty Mỹ, hay EU và Nhật để họ nhập hàng vì nhiều lý do, như ít sáng tạo vì hệ thống đào tạo đại học và sau tại VN là quá lạc hậu.

FB: Phương Thơ, Morgan Stanley (NYSE: MS)

Ngày 26/1/2015, các nước thành viên TPP đã công bố bản toàn văn chính thức của Hiệp định.
Ngày 4/2/2016, Hiệp định TPP đã được chính thức ký kết tại New Zealand.
Dưới đây là nội dung chi tiết Toàn văn Hiệp định TPP (bản chính thức) bằng tiếng Anh và bằng tiếng Việt cùng với các Bản Tóm tắt nội dung các Chương Hiệp định của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) và Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT) bằng tiếng Anh và Bộ Công Thương Việt Nam (MOIT) bằng tiếng Việt.
Nội dung Hiệp định:
Lời mở đầu (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Chương 1: Các điều khoản và định nghĩa chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | DFAT 
Chương 2: Đối xử quốc gia và mở cửa thị trường đối với hàng hóa (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT 
Phụ lục 2-D: Lộ trình cắt giảm thuế
Chương 3: Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
  • Phụ lục 3-D: Quy tức xuất xứ cụ thể mặt hàng (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
  • Phụ lục 3-D: Tiểu phụ lục 1 - Các điều khoản liên quan đến Quy tắc xuất xứ cụ thể cho phương tiện và bộ phận của phương tiện (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Chương 4: Dệt may (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 5: Hải quan (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 6: Phòng vệ Thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR MOIT  DFAT
Chương 7: Các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 8: Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (Tiếng Anh(Tiếng Việt)  
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 9: Đầu tư (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 10: Thương mại dịch vụ xuyên biên giới (Tiếng Anh(Tiếng Việt
 Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 11: Dịch vụ Tài chính (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 12: Nhập cảnh tạm thời cho khách kinh doanh (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Phụ lục 12-A: Nhập cảnh tạm thời
Chương 13: Viễn thông  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 14: Thương mại điện tử  (Tiếng Anh) (Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 15: Mua sắm Chính phủ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
​​Phụ lục 15-A: Mua sắm Chính phủ
Chương 16: Cạnh tranh  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT |DFAT
Chương 17: Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và độc quyền chỉ định  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của USTR |MOIT DFAT
Chương 18: Sở hữu trí tuệ  (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 19: Lao động (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT DFAT
Chương 20: Môi trường (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR | MOIT | DFAT
Chương 21: Hợp tác và nâng cao năng lực  (Tiếng Anh(Tiếng Việt)
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 22: Nâng cao sức cạnh tranh và Thuận lợi hóa hoạt động kinh doanh (Tiếng Anh) (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 23: Phát triển (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 24: Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 25: Hội tụ phương pháp hoạch định chính sách thương mại (Tiếng Anh (Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 26: Minh bạch hóa và chống tham nhũng (Tiếng Việt) (Tiếng Anh
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 27: Các điều khoản hành chính và thể chế (Tiếng Anh)(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của  USTR DFAT
Chương 28: Giải quyết tranh chấp (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 29: Các ngoại lệ và các điều khoản chung (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT
Chương 30: Các điều khoản cuối cùng (Tiếng Anh(Tiếng Việt
Bản tóm tắt chương của USTR DFAT

PHỤ LỤC
Phụ lục I: Non-Conforming Measures:
Phụ lục II: Non-Conforming Measures:
Phụ lục III: Dịch vụ tài chính
Phụ lục IV: Doanh nghiệp nhà nước

Ngoài các cam kết chính trong văn bản Hiệp định, các bên còn xây dựng các Thư song phương nhằm làm rõ hơn một số nội dung cam kết hoặc thổng nhất cách hiểu về một số nội dung cam kết trong Hiệp định. Dưới đây là các Thư song phương của Việt Nam với một số đối tác TPP:
Thư song phương giữa Việt Nam và một số đối tác TPP: 
Australia
Brunei Darussalam
Canada
Chile
Japan
Malaysia
Mexico
New Zealand
Peru
Singapore
United States
Nguồn: www.trungtamwto.vn